Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đưa ra lấy ý kiến nhân dân và đang được thảo luận tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII đã dành riêng chương II nói về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đảm bảo quyền con người và quyền công dân là để phát triển xã hội và phát triển con người. Quyền con người là một trong những vấn đề lâu đời của nhân loại, vừa mang tính cổ điển vừa mang tính hiện đại, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của nhân loại, quan niệm về quyền con người có sự khác biệt và phát triển theo những nấc thang dài ngắn khác nhau.(*)Sự phát triển của tư tưởng về quyền con người cũng như việc thực thi trong thực tiễn các tư tưởng ấy là một trong những biểu hiện, thước đo trình độ tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, không phải tất cả các nội dung tư tưởng về quyền con người đã đạt được sự thống nhất trong xã hội, hay chí ít trong các nhà nghiên cứu(1). Sự nhận thức, sự tôn trọng, sự phát triển và điều kiện thực thi các quyền con người cả trong tư tưởng lẫn trong pháp điển và thực thi chúng vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, ở những vấn đề cụ thể của tư tưởng về quyền con người những khác biệt ý kiến trong giới nghiên cứu cũng như trong hoạt động tổ chức, thực thi các quyền con người, vẫn còn tồn tại và tiếp tục nảy sinh. Trong thực tế, hiện nay có hàng triệu người sinh ra, lớn lên rồi mất đi mà cũng không hề biết họ là chủ nhân của các quyền con người, hoặc không biết rằng trong đời sống với tính cách con người họ có những quyền gì(2). Thực tế ấy không chỉ có ở phạm vi quốc gia, kể cả ở các quốc gia phát triển lẫn đang phát triển mà cả trên phạm vi quốc tế. Việt Nam vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến và các cuộc chiến tranh kéo dài, khốc liệt cách đây không lâu, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn; sự phân hóa thu nhập và chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng miền còn khá lớn và có xu thế gia tăng. Hiện nay, ở một số nơi quyền con người chưa được chú ý quan tâm đúng mức cả ở những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, lẫn đông đảo quần chúng nhân dân. Công tác tuyên truyền đưa quyền con người đến với người dân chưa được triển khai một cách đồng bộ, hữu hiệu, khiến cho sự hiểu biết và thực thi về quyền con người còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tình trạng vi phạm quyền con người vẫn còn diễn ra ở những mức độ khác nhau. Trong bối cảnh đó, việc nhận thức và thực thi đúng đắn, đầy đủ các quyền con người để phát triển nhanh, mạnh và bền vững là hết sức có ý nghĩa cả về phương diện thực tiễn lẫn lý luận, vừa mang tính cấp thiết vừa có tính chiến lược dài lâu đối với sự phát triển con người bền vững nói riêng và phát triển bền vững của xã hội nói chung.
Từ góc độ cá nhân, để phát triển con người, việc nhận thức và thực thi đúng đắn, đầy đủ về quyền con người là một trong những tiền đề và điều kiện tiên quyết cho sự hình thành và phát triển cá nhân, cả với tính cách một nhân cách lẫn với tính cách một cá thể. Ở góc độ này quyền con người là một phần nội tại của sự phát triển con người bền vững; ngược lại, phát triển con người và phát triển bền vững nói chung sẽ là điều kiện, phương tiện để nhận thức và thực thi đầy đủ, đúng đắn quyền con người.(1)
Từ góc độ cộng đồng, xã hội nói chung, nhận thức và thực thi đúng đắn, đầy đủ về quyền con người là một trong những tiền đề và điều kiện tiên quyết cho sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của chính cộng đồng và xã hội. Cộng đồng, xã hội sẽ ổn định trong phát triển nếu quyền con người được nhận thức và thực thi đầy đủ, đúng đắn cả từ góc độ cá nhân lẫn góc độ xã hội. Sự kết hợp hài hòa giữa hai góc độ cá nhân và xã hội trong nhận thức và thực thi quyền con người là một đòi hỏi xuất phát cả từ lý luận lẫn thực tiễn của nước ta. Nếu tất cả vì cộng đồng mà bỏ quên con người với tính cách là cá nhân hay quá vì cá nhân mà bỏ quên cộng đồng thì sớm hoặc muộn đều dẫn đến sự mất ổn định, hoặc làm mất tính bền vững, kìm hãm sự phát triển của cả cộng đồng lẫn của các cá nhân.
Nhận thức, thực thi quyền con người vì sự phát triển con người là vấn đề đa diện, có thể được nhìn nhận, tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Trước hết, trong khuôn khổ chuyên ngành hẹp có thể tiếp cận từ quan niệm, quan điểm, cách hiểu...; nội dung và phạm vi các văn bản pháp luật, pháp điển khu vực, quốc tế, quốc gia, vùng lãnh thổ cụ thể đến các cơ chế bảo vệ và thực thi quyền con người ở các cấp độ khác nhau. Mặt khác, từ góc độ bao quát hơn, vấn đề này có thể được xem xét từ góc độ của các ngành khoa học khác nhau, như luật học, triết học, chính trị học, xã hội học, kinh tế học, sử học, văn hóa học. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn hiện nay, cách tiếp cận phát triển con người về quyền con người, một mặt, là một hướng tiếp cận mới, vừa bổ sung cho các cách tiếp cận khác nhau đã nêu trên nhằm tạo ra một bức tranh toàn diện về vấn đề quyền và thực thi quyền con người, vừa đặt vấn đề này trong tương quan với mục tiêu phát triển con người và cộng đồng, xã hội; mặt khác, làm sâu sắc thêm nó bằng việc tổng hợp, khái quát kết quả nghiên cứu của các ngành và của thực tiễn nhận thức và thực thi quyền con người vì sự phát triển của con người và xã hội hiện nay.
Như đã biết, quyền con người có thể được hiểu theo những cách khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận, nghiên cứu và lĩnh vực hoạt động. Cho đến nay, trên phạm vi quốc tế cũng như quốc gia chưa có được một quan niệm thống nhất hoàn toàn. Nếu hiểu quyền con người là những đảm bảo pháp lý chung (universal legal guarantees) để bảo vệ các cá nhân và các nhóm người chống lại những hành vi gây tổn hại nhân phẩm, sự được hưởng (entitlement) và tự do căn bản (fundamental freedom) của họ; là những cái được phép mà mọi người đều có khi họ tồn tại trên thế giới; những cái được ghi nhận, được bảo vệ trong pháp luật của nhà nước và trong các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Dù có thể tiếp cận từ các góc độ khác nhau, mức độ tổng quát khác nhau, nhưng cho đến nay, cả ở cấp độ quốc tế lẫn quốc gia, khu vực, lĩnh vực thì quyền con người được xem là những chuẩn mực, những đảm bảo pháp lý và đạo đức được thừa nhận như một tất yếu, cần thiết, có tính chất nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Chúng là kết tinh các giá trị nhân văn cao cả, chung nhất làm nền tảng cho các giá trị khác của đời sống xã hội hiện đại.
Trên phương diện lý luận, từ góc độ chung vì mục tiêu phát triển con người mà xét thì các tư tưởng về quyền con người và phát triển con người chính là một trong những căn cứ lý luận đầu tiên, cơ bản và chung nhất trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở các quốc gia khác nhau để xác định những vấn đề cơ bản của quyền con người và việc thực thi quyền con người. Quyền con người trước hết là những giá trị nhân văn cao cả, chung nhất, có tính chất nền tảng của văn hóa và đời sống xã hội được luật pháp hóa. Hệ thống pháp luật của quốc gia nào cũng bao gồm trong nó nhiều đạo luật khác nhau, bảo vệ các quan hệ xã hội xác định, thể hiện thành những quyền tương ứng mà người ta thường gọi tên các quyền ấy theo loại, lĩnh vực các quan hệ xã hội. Chẳng hạn, đó là quyền công dân, quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, quyền văn hóa, quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục,... Nếu hiểu theo nghĩa rộng toàn bộ hệ thống các quyền ấy quyền nào cũng nhằm mục tiêu phục vụ con người, vì con người, để phát triển con người. Với ý nghĩa và nội dung đó thì mọi quyền được luật định đều là quyền con người.
Tuy nhiên, trong hệ thống các quyền đó thì có những quyền trực tiếp gắn với sự tồn tại, phát triển, hoàn thiện của nhân phẩm, của sự tự do của con người cần được tôn trọng, bảo vệ trong mọi chế độ và mọi thời kỳ lịch sử. Đó chính là quyền con người, bao gồm các quyền tự nhiên có ngay từ khi con người sinh ra, không phân biệt giới tính, chủng tộc, địa vị, tôn giáo, lứa tuổi, phong tục, tập quán, truyền thống, không phụ thuộc ý chí của bất cứ ai, bất kể nhà nước nào. Nó cũng bao hàm các quyền khác được các nhà nước luật hóa trên cơ sở truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế và xã hội.
Do vậy, quyền con người có tính phổ biến, được áp dụng bình đẳng cho mọi người với tính cách là chủ thể của các quyền con người; không thể chuyển nhượng; có quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau; không thể phân chia. Do bản chất và các tính chất như vậy của quyền con người nên bất cứ một sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử, hay tước bỏ, hạn chế một hoặc một số quyền con người nào đó đều gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại, phát triển và hoàn thiện nhân phẩm, sự tự do và phát triển của con người. Trái lại, sự nhận thức và thực thi đầy đủ, đúng đắn bất cứ quyền con người nào cũng sẽ tác động tích cực đến việc thực thi các quyền khác. Nói cách khác, không thể thực thi thành công một quyền con người xác định nào đó nếu bỏ qua hay vi phạm một hay một số quyền khác.
Những phân tích trên đây cho thấy bản chất và những tính chất đặc trưng của quyền con người là cơ sở lý luận đầu tiên, là nền tảng cho việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người và điều kiện đảm bảo thực thi chúng ở Việt Nam vì mục tiêu phát triển con người hiện nay. Cơ sở lý luận này bao gồm hai yêu cầu căn bản. Thứ nhất, để xác định được những vấn đề cơ bản về quyền và thực thi quyền con người trước hết phải xem đó là những vấn đề nào gắn với việc xây dựng, nhận thức, thực thi các quyền trực tiếp gắn với sự tồn tại, phát triển, hoàn thiện của nhân phẩm, của sự tự do của con người cần được tôn trọng, bảo vệ trong mọi chế độ và mọi thời kỳ lịch sử, không phân biệt lứa tuổi, thành phần, địa vị, dân tộc, tôn giáo, v.v.. Thứ hai, do đặc tính không thể tách rời nhau nên khi xem xét những vấn đề cơ bản về quyền và thực thi quyền con người lại cần đặt chúng trong mối quan hệ với các vấn đề của các quyền con người khác.
Cơ sở lý luận thứ hai chính là những khía cạnh lý luận về lịch sử - văn hóa của các quyền con người. Cơ sở lý luận này bao hàm nhiều nội dung cụ thể khác nhau và mức độ chi phối việc lựa chọn các vấn đề về quyền và thực thi quyền con người của các nội dung này cũng khác nhau. Trước hết, các quyền và việc thực thi các quyền con người không thể tách rời nhau, nhưng phải tùy thuộc bối cảnh lịch sử - văn hóa cụ thể của đất nước ở từng thời kỳ khác nhau để lựa chọn những vấn đề cơ bản về quyền và thực thi quyền con người cho đúng và thích hợp. Sự nổi trội, tính cấp thiết, “độ nóng”, sự xung yếu của các điểm nút về những quyền con người xác định ở mỗi thời kỳ cụ thể phải được xác định rõ để “ưu tiên” thực thi là một đòi hỏi tất yếu. Việc xác định những quyền nào, những vấn đề nào là cơ bản tại thời điểm đó phải xuất phát từ thực tiễn của việc đảm bảo chúng, chứ không thể chỉ dựa trên sự đánh giá về giá trị và điều kiện thực thi của các quyền con người. Thông thường, từ thực tế những quyền và những vấn đề về quyền con người nào đang bị xem nhẹ, bỏ qua, hoặc bị “tụt hậu” so với các quyền khác, hoặc bị vi phạm nhiều hơn trong quá trình thực thi, thì cần phải được “ưu tiên” thành vấn đề cơ bản.
Ở bất cứ thời đại nào thì quyền con người cũng bị chi phối bởi hệ thống các chuẩn mực, giá trị đạo đức, tôn giáo, tâm linh và văn hóa nói chung; bởi hệ thống các quan hệ xã hội; bởi các điều kiện chính trị; bởi hệ thống pháp lý và bối cảnh khu vực, quốc tế. Các phạm trù, chuẩn mực đạo đức và tôn giáo khi âm thầm, lặng lẽ, khi trào sôi mạnh mẽ luôn chi phối sự phát triển của con người và các quyền con người, kể cả những thời kỳ mà quyền con người chưa được pháp điển hóa. Những quy phạm đạo đức và niềm tin tôn giáo luôn là những sức mạnh thúc đẩy sự biến đổi và phát triển của việc nhận thức và thực thi các quyền con người trong tất cả các thời kỳ lịch sử. Đương nhiên, không chỉ các quy phạm đạo đức và niềm tin tôn giáo mà cả các quan hệ xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hóa khác ở các thời kỳ lịch sử cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc chi phối sự nhận thức và thực thi các quyền con người. Trong đó, các tư tưởng về con người và quyền con người ở mỗi thời đại đóng vai trò nền tảng tư tưởng trực tiếp cho sự hình thành các quy phạm pháp luật và quyền con người.
Các quan hệ quốc tế và khu vực trong các thời kỳ khác nhau cũng đóng những vai trò khác nhau đối với việc hình thành và thực thi các tư tưởng và các quyền con người. Tương quan lực lượng giữa các quốc gia, các tập đoàn, giai cấp trên phạm vi quốc tế và khu vực cũng như trình độ phát triển và mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng có ảnh hưởng to lớn đến việc nhận thức và thực thi các quyền con người trong mỗi quốc gia.
Tổng thể các nhân tố nói trên, ở các mức độ khác nhau, trong những thời kỳ và điều kiện cụ thể nhất định, chi phối không chỉ việc nhận thức, thực thi các quyền, mà cả những vấn đề cơ bản gắn liền với các quyền, thực thi quyền con người ở những thời kỳ đó. Đồng thời, cùng với trình độ phát triển của kinh tế, chúng quy định cả những điều kiện và phương tiện, phương thức thực thi và giải quyết những vấn đề ấy. Chính vì thế, về phương diện lý luận, nội dung căn bản của cơ sở lý luận thứ hai cho việc xác định một số vấn đề cơ bản về quyền con người và điều kiện đảm bảo thực thi chúng ở nước ta hiện nay là việc nhận thức lý luận đầy đủ các yếu tố nêu trên. Chỉ trên cơ sở nhận thức lý luận đúng đắn, đầy đủ các yếu tố chi phối việc nhận thức và thực thi các quyền và các vấn đề cơ bản gắn liền với các quyền con người, thì mới có khả năng làm sáng tỏ và giải quyết những vấn đề của chúng, tổ chức thực thi các quyền con người một cách hữu hiệu. Cơ sở lý luận thứ hai này gắn liền và xuất phát từ chính các đặc điểm của quyền con người, đòi hỏi phải nhận thức, quán triệt và đặt việc giải quyết những vấn đề cơ bản của quyền con người, thực thi chúng trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội, chính trị, tư tưởng cụ thể của các quyền đó. Bối cảnh cụ thể làm cho vấn đề nào đó của quyền con người có thể “nổi lên”, “trở thành” cơ bản, trọng yếu, cần được “ưu tiên hơn”. Do vậy, nếu không nhận thức đầy đủ và đúng đắn bối cảnh thì không thể nhận thức và giải quyết được các vấn đề của quyền con người nói chung, các vấn đề cơ bản nói riêng.
Cơ sở lý luận thứ ba là căn cứ pháp lý của các quyền con người, bởi nó xuất phát từ góc độ pháp lý. Theo nghĩa rộng, quyền con người được biểu lộ, định hình, “thể hiện” dưới hai hình thức. Thứ nhất, nó định hình dưới các chuẩn mực, giá trị đạo đức, tinh thần, các ‘lệ”, “tục”, tập quán... được cộng đồng mặc nhiên thừa nhận, xem như là “lẽ phải thông thường”, vốn có, tất nhiên, không cần bàn cãi. Thứ hai, đó là những quyền được luật hóa, do các nhà nước quy định thành văn bản pháp quy. Nhưng, dù là các quyền tự nhiên hay do nhà nước luật hóa thì việc thực thi đầy đủ chúng đều cần được đảm bảo bằng pháp luật, để việc thực thi đúng đắn và đầy đủ có thể trở thành nguyên tắc ứng xử bắt buộc, thống nhất đối với mọi chủ thể xã hội. Tính pháp lý trở thành đòi hỏi tất yếu của việc thực thi các quyền con người. Chỉ khi được pháp luật hóa thì quyền con người mới có đủ giá trị hiện thực cả về phương diện tự nhiên lẫn xã hội. Việc thực thi quyền con người lúc này mới mang tính cưỡng chế, bắt buộc đối với mọi chủ thể của xã hội. Pháp luật trở thành công cụ của toàn xã hội và các chủ thể để thực thi quyền con người. Do vậy, việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người và điều kiện thực thi chúng phải dựa vào chính các quyền con người đã được luật pháp hóa, được nhà nước pháp điển thành luật, tức phải dựa vào các điều luật về quyền con người.
Theo lý luận quyền con người của Karel Vasak thì lịch sử phát sinh của quyền con người (generations of human rights) gồm ba thế hệ. Thế hệ đầu tiên tập trung vào nội dung tự do và tham gia chính trị của con người, như quyền sống, tự do tư tưởng, tự do biểu đạt, bầu cử, ứng cử, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, xét xử công bằng. Xét về thực chất và nội dung, thế hệ này bao gồm các quyền tự nhiên của con người về tự do cá nhân. Hiện nay, thế hệ quyền này vẫn tiếp tục được các quốc gia chú trọng cả từ góc độ pháp điển hóa lẫn thực thi thực tiễn. Thế hệ quyền con người thứ hai gồm các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, chủ yếu hướng đến việc tạo lập sự đối xử công bằng, bình đẳng cho mọi người, chẳng hạn như quyền có việc làm, quyền có nhà ở, được chăm sóc y tế, bảo trợ xã hội. Hai thế hệ quyền này ở phạm vi quốc tế đã được thể hiện tập trung trong hai công ước được xem là nền tảng căn bản của luật quốc tế về quyền con người hiện nay. Đó là Công ước về các quyền dân sự, chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966. Thế hệ quyền con người thứ ba, về thực chất, là sự thể hiện kết hợp các nhóm quyền dân sự, chính trị với kinh tế, văn hóa, xã hội trong điều kiện hiện đại. Đó là các quyền như tự quyết dân tộc, quyền phát triển, quyền được sống trong hòa bình, quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa, quyền được sống trong môi trường an toàn và trong lành,... Phần lớn các quyền thế hệ thứ ba còn đang trong quá trình đấu tranh để được pháp điển hóa. Chúng đang tồn tại dưới dạng các tuyên ngôn, tuyên bố như Tuyên bố về quyền của các dân tộc được sống trong hòa bình (1984), Tuyên bố về quyền phát triển (1986). Chúng thường chưa có hiệu lực ràng buộc về pháp lý, thậm chí còn đang tranh cãi và do vậy, thường được gọi là “luật mềm”.
Từ góc độ này mà xét thì việc phân định rõ các thế hệ quyền, các loại quyền đã được pháp điển hóa thành “luật cứng” thuộc các thế hệ khác nhau, có hiệu lực ràng buộc về pháp lý và các “quyền” chưa được pháp điển hóa để có những “thái độ”, cách “hành xử” thích hợp với mỗi loại quyền là một nội dung không thể thiếu của cơ sở lý luận nhằm xác định một số vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người ở nước ta.
Quyền con người mang tính lịch sử, có phạm vi và nội dung rộng lớn, gồm nhiều nhóm khác nhau tùy theo các tiêu chí khác nhau. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của cơ sở lý luận để xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người hiện nay ở nước ta. Nếu nhìn nhận các quyền trên cơ sở phân chia lĩnh vực thì có 5 nhóm quyền tương ứng 5 lĩnh vực - dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, dù rằng điều này chỉ mang tính chất tương đối. Việc phân định như trên xuất phát từ sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu trong thực thi các quyền thuộc các nhóm khác nhau. Về phương diện lý luận, từ góc độ chủ thể quyền, các quyền con người cũng bao hàm các quyền cá nhân và quyền của nhóm; quyền tự nhiên và quyền pháp lý; quyền cụ thể và quyền hàm chứa; quyền chủ động và quyền thụ động; quyền tuyệt đối và quyền có điều kiện; quyền tự do hành động và quyền đòi hỏi; quyền không thể hạn chế và quyền có thể bị hạn chế. Không dựa trên lý luận về phân loại các quyền thì không thể xác định được đâu là những vấn đề cơ bản và đâu là vấn đề không cơ bản về quyền con người nói chung ở từng thời điểm, từng thời kỳ phát triển của xã hội.
Lý luận về quyền con người cũng đòi hỏi phải xem xét cụ thể vấn đề nghĩa vụ quốc gia, xã hội, chế độ chính trị cụ thể ở từng thời kỳ, dưới các hình thức cụ thể, như nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ, nghĩa vụ thực hiện, nghĩa vụ tổ chức và nghĩa vụ hiệu quả. Đồng thời, không phải lúc nào quyền con người cũng được thực hiện ở mức độ như nhau với tất cả các quyền. Trong những hoàn cảnh nhất định, hay hoàn cảnh khẩn cấp, có thể hạn chế việc thực hiện một số quyền cụ thể nào đó trong những giới hạn điều kiện và thời gian xác định. Nguyên tắc này cũng là một trong những căn cứ lý luận để xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người. Bởi lẽ, phải căn cứ vào thời điểm và không gian cụ thể để xem xét mức độ hạn chế, mức độ đòi hỏi của một quyền cụ thể nào đó mới có thể xác định được những vấn đề cơ bản về quyền con người tại thời điểm và địa điểm cụ thể xác định.
Cơ sở lý luận thứ tư - việc xác định một số vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người cần phải dựa chủ yếu trên cách tiếp cận quyền con người. Đây có thể xem là cơ sở cho việc xác định các vấn đề cơ bản về quyền con người trong bất cứ thời điểm nào, bất cứ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam. Về lý thuyết, có thể sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người để xác định những vấn đề cơ bản của quyền con người trong một thời đoạn và trong một không gian nào đó. Chẳng hạn, có thể tiếp cận quyền con người từ góc độ nhân phẩm. Quyền con người bắt nguồn từ nhân phẩm và để bảo vệ nhân phẩm. Mọi hành vi xâm phạm quyền con người cũng đồng thời là xâm phạm nhân phẩm và ngược lại, mọi hành vi bảo vệ, củng cố và phát triển quyền con người cũng đồng thời là bảo vệ, củng cố, phát triển nhân phẩm. Trong số các quyền con người có những quyền trực tiếp khẳng định nhân phẩm, có những quyền khác lại khẳng định một cách gián tiếp.
Cũng có thể sử dụng cách tiếp cận dựa trên nhu cầu, bởi việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, hợp lý, khách quan cũng là thực hiện quyền con người. Về thực chất, quyền con người là những nhu cầu, lợi ích chính đáng, tương ứng với một trình độ phát triển xã hội xác định, trong một điều kiện lịch sử cụ thể được pháp điển hóa thành luật. Cách tiếp cận này không hẳn là đầy đủ, toàn diện, khách quan, ổn định, bởi nó không hướng đến chuẩn mực chung, đến việc trao quyền, tham gia, luật định,... của các chủ thể. Nhưng, một số nước hiện vẫn sử dụng bởi nó cũng có những yếu tố hợp lý khá sâu sắc. Do vậy, trong việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người, về phương diện lý luận, cần lưu ý đến cách tiếp cận này như một tham chiếu cần thiết.
Một tham chiếu khác không nên bỏ qua về phương diện cách tiếp cận, đó là tiếp cận dựa trên năng lực với việc tính đến năng lực, khả năng của các chủ thể xã hội trong nhận thức và thực thi các quyền con người. Cả về lý luận cũng như thực tiễn quyền con người vừa mang tính tự nhiên - xã hội, vừa mang tính pháp lý, nhưng không phải mọi chủ thể ở mọi không gian và thời gian đều có khả năng nhận thức đúng đắn, đầy đủ và thực thi được các quyền con người của họ. Năng lực nhận thức, điều kiện khách quan và chủ quan của các chủ thể, môi trường lịch sử, văn hóa, xã hội là những nhân tố quy định hoặc gây ảnh hưởng đến việc nhận thức và thực thi các quyền con người. Năng lực, khả năng nhận thức và thực thi ấy thể hiện sự chủ động, sự tích cực, sự tham gia của chủ thể quyền con người ở các mức độ khác nhau và cần được phát huy tối đa để nhận thức và thực thi các quyền con người một cách tốt nhất.
Cơ sở lý luận thứ năm để xác định những vấn đề cơ bản của quyền con người là yêu cầu phải phân định rõ phạm trù quyền con người với các phạm trù khác, như quyền công dân, an ninh và an toàn của con người, phát triển con người, tự do và dân chủ, nhân phẩm và đặc thù văn hóa, lịch sử,... Nội dung của cơ sở lý luận thứ năm này là các quan hệ vừa rất căn bản, vừa đa dạng, phong phú, vừa gắn liền với thực tiễn đương đại của thế giới nói chung, vừa mang sắc thái riêng của các quốc gia, dân tộc. Sự phân định rõ ràng về phương diện lý luận các phạm trù này là cơ sở cho việc tránh khỏi những nhầm lẫn ngoại diên trong các vùng chồng lấn của các phạm trù; đồng thời, nó cũng giúp các chủ thể quyền con người nhận thức và thực thi đầy đủ các quyền nói chung và quyền con người nói riêng. Đặc biệt, sự phân định nội hàm và ngoại diên các phạm trù quyền con người và quyền công dân, quyền con người và phát triển con người, quyền con người và tự do, dân chủ... với tính cách là những nội dung lý luận nền tảng cho việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người trong giai đoạn hiện nay.
Cơ sở lý luận thứ sáu là Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948); hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, văn hóa và xã hội (1966) và các công ước, điều luật khác về quyền con người mà nước ta đã ký kết. Trong đó, căn bản và quan trọng nhất là 4 văn bản đầu tiên trên đây. Đó là những nguyên tắc, điều khoản mang tính nền tảng và cơ sở cho tất cả các công ước và điều luật khác, mà theo thống kê sơ bộ, hiện nay có khoảng 110 văn kiện. Khác biệt với quyền công dân, quyền con người là những quyền căn bản, cốt lõi, chi phối các quyền công dân, vừa thể hiện bản chất của chính nó, vừa được thể hiện thông qua quyền công dân. Do vậy, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ khác nhau, nó ngấm sâu trong các đạo luật, văn bản pháp quy của các quốc gia. Tùy thuộc đặc điểm, tình hình cụ thể về các phương diện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc tế mà các văn bản pháp quy quốc gia sẽ thể hiện đến mức nào các quyền con người. Nói cách khác, khi xem xét những vấn đề cơ bản về quyền con người từ góc độ nhận thức đến xây dựng luật pháp, thực thi các điều khoản của nó, về nguyên tắc, người ta phải tính đến các quyền con người căn bản được ghi trong Hiến chương, trong tuyên ngôn, các công ước và đạo luật nói trên. Do vậy, chúng chính là một trong những cơ sở lý luận quan trọng cho việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người ở các quốc gia đã ký kết các văn kiện nói trên.
Việt Nam là thành viên chính thức của Liên hợp quốc và đã ký kết các văn kiện cơ bản nói trên. Việc thực thi các quyền con người ở Việt Nam cũng dựa trên một trong những nền tảng, cơ sở, căn cứ là các văn kiện đó. Thế giới cũng nhìn nhận và đánh giá việc xây dựng, thực thi các quyền con người ở nước ta hiện nay thông qua các văn kiện này. Những văn kiện đó đương nhiên là một trong những cơ sở lý luận chung để xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay.
Cơ sở lý luận thứ bảy của việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay là những quan điểm, tư tưởng của Đảng ta về con người và phát triển con người, được thể hiện tập trung trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI vừa qua. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; xây dựng và phát triển con người; phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính,... đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân,... Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân([2]).
Những tư tưởng căn bản này đã được hình thành và làm phong phú dần qua thực tiễn của những năm đổi mới vừa qua, được đúc rút thành lý luận. Chúng thể hiện định hướng, quan điểm, nguyên tắc và giải pháp phát triển con người và nhận thức, thực thi quyền con người vì sự phát triển của chính con người và cộng đồng. Do vậy, các quan điểm này thể hiện cả khía cạnh thực tiễn lẫn khía cạnh lý luận của vấn đề phát triển con người ở nước ta hiện nay nói chung và vấn đề quyền con người nói riêng. Những quan điểm này của Đảng chính là một trong những cơ sở lý luận quan trọng hàng đầu để xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay.
Một mặt, các quan điểm cơ bản của Đảng về xây dựng, phát triển con người luôn gắn liền và thể hiện quyền con người ở Việt Nam. Những quan điểm ấy có vai trò định hướng, chỉ đạo việc xây dựng và thực thi các quyền con người. Chúng là nền tảng của các tư tưởng luật pháp về quyền con người và thực thi quyền con người, thể hiện cách nhìn, thái độ và sự ứng xử đối với các quyền con người trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước. Các đạo luật, văn bản pháp quy về quyền con người, trên nguyên tắc, đều phải thể hiện các tư tưởng trên đây của Đảng với tính cách là những định hướng, những tư tưởng chủ đạo về quyền con người trong giai đoạn hiện nay.
Mặt khác, những tư tưởng, quan điểm của Đảng cũng thể hiện, kết tinh những vấn đề thực tiễn của đời sống xã hội về phát triển con người và đảm bảo quyền con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Những nội dung căn bản, những đòi hỏi thực tế và khả năng thực thi quyền con người vì sự phát triển con người cũng như sự phát triển con người nói chung, về nguyên tắc, được cô đọng và thể hiện trong các tư tưởng, quan điểm của Đảng. Quyền con người, về thực chất, là sự pháp điển hóa các quan điểm, tư tưởng của Đảng về phát triển con người trong những nội dung và khía cạnh nhất định.
Thêm nữa, trong điều kiện đặc thù Việt Nam, hệ thống tư tưởng chính trị và pháp luật cũng như bộ máy Nhà nước đều chịu sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng nên không chỉ về phương diện lý luận mà cả phương diện tổ chức thực thi và hệ thống thiết chế tương ứng để thực thi cũng phải trên nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng. Do vậy, các quan điểm, tư tưởng của Đảng nói trên luôn là nền tảng lý luận của cả quá trình từ việc hình thành, xây dựng, pháp điển hóa các quyền con người đến việc tổ chức thực thi, giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện quyền con người vì sự phát triển con người trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Từ các nội dung, khía cạnh này, có thể kết luận rằng các quan điểm, tư tưởng của Đảng về sự phát triển con người trong giai đoạn hiện nay là một trong những cơ sở lý luận quan trọng hàng đầu cho việc xác định các vấn đề cơ bản về quyền con người vì sự phát triển con người.
Cơ sở lý luận thứ tám cũng rất quan trọng đối với việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người hiện nay ở nước ta chính là Hiến pháp với những nội dung liên quan trực tiếp và gián tiếp về quyền con người. Về thực chất, ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 quyền con người đã giữ vị trí trung tâm. Các Hiến pháp sau đó tiếp tục khẳng định, mở rộng nội dung và cụ thể hóa các quyền con người một cách chi tiết hơn, đầy đủ hơn, tương ứng với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn. Cơ sở lý luận trực tiếp hiện nay là Hiến pháp 1992. Hiến pháp 1992 của nước ta khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (điều 50). Cùng với quyền con người nói chung, các nội dung cụ thể khác, như quyền bình đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em, quyền người khuyết tật... cũng chính thức được đề cập không chỉ trong các văn kiện của Đảng, mà còn được pháp điển hóa trong các văn bản pháp luật và pháp quy của Nhà nước. Đây vừa là cơ sở lý luận vừa là khung khổ pháp lý để đảm bảo điều kiện thực hiện quyền con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người và điều kiện đảm bảo thực thi quyền con người ở nước ta không thể không lấy Hiến pháp hiện nay làm căn cứ lý luận. Hiến pháp chính là đạo luật cơ bản, nền tảng về quyền con người của một quốc gia. Có thể nói, Hiến pháp chính là sự thể hiện cô đọng và tập trung nhất về quyền con người. Trong nội dung Hiến pháp còn bao chứa nhiều quyền khác, nhưng tất cả chúng, xét đến cùng và sâu xa, đều là sự thể hiện ở những góc độ nhất định các quyền con người ở nước ta đang được bảo vệ, thực thi và mở rộng.
Hiến pháp, trong một chừng mực nhất định, có thể xem là sự pháp điển hóa các quan điểm, tư tưởng của Đảng về các quyền con người và sự phát triển con người trong điều kiện cụ thể của đất nước ở từng thời kỳ xác định. Nó là sự thể hiện tập trung nhất các tư tưởng của Đảng, định hướng phát triển đất nước nhằm bảo đảm thực thi quyền con người và sự phát triển con người. Hiến pháp còn thể hiện trên góc độ luật pháp những vấn đề hiện tại, thực tiễn hàng ngày của sự phát triển con người và quyền con người trong mỗi giai đoạn phát triển. Hiến pháp, với tính cách đạo luật cơ bản về quyền con người và phát triển con người, đóng vai trò chi phối và là khung khổ pháp lý của các đạo luật khác. Do vậy, việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người đều không thể không dựa trên nền tảng Hiến pháp.
Như vậy, có những cơ sở lý luận khách quan và quan trọng cho việc xác định các vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người. Những cơ sở lý luận đó khác nhau về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng đến quyền con người và thực thi các quyền đó. Tuy nhiên, cần phải đặt chúng trong mối liên hệ chặt chẽ vốn có với tư cách một hệ thống tạo nên nền tảng lý luận cho việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người cũng như việc nhận thức và thực thi quyền con người trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử của đất nước. Thực tiễn cũng là một cơ sở rất quan trọng và trực tiếp chi phối những vấn đề của quyền con người nói chung cả về phương diện nội dung lẫn hình thức, mức độ cơ bản hay không cơ bản, chủ yếu hay thứ yếu. Do đó, phải lưu ý đến cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận trong việc xác định những vấn đề cơ bản về quyền con người. Việc tính đến chúng một cách đầy đủ, phù hợp sẽ giúp cho việc xác định các vấn đề cơ bản về quyền và thực thi quyền con người sát hợp, khách quan và chính xác hơn.