Tìm kiếm

"ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM" - CƯƠNG LĨNH VĂN HÓA MANG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI

01/03/2023

Tạp chí Triết học, số 4, năm 2013

ĐẶNG HỮU TOÀN (*)

70 năm trước, năm 1943, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã ra đời. Đây không chỉ là một văn kiện lịch sử quan trọng, mà còn là Cương lĩnh đầu tiên mang giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Đề cương này không chỉ là ở chỗ đã tạo ra một bước ngoặt mới, mở ra một thời kỳ mới trong đường lối tiến hành cách mạng văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam, mà còn là ở chỗ đưa ra cách hiểu mới về văn hóa, xác định đúng đắn phạm vi của văn hóa, mối quan hệ của văn hóa với các lĩnh vực hoạt động khác của con người, của cách mạng văn hóa với cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế; ở tính định hướng và vai trò gợi mở của nó trong việc xác định phương thức, cách thức tiến hành cách mạng văn hóa và những nguyên tắc nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đời sống văn hóa, nền văn hóa mới Việt Nam.

 

 

Tại Đại hội XI, khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), một lần nữa, Đảng ta đã khẳng định chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(1).

Chủ trương đó, có thể nói, bắt nguồn từ Đề cương về văn hóa Việt Nam mà cách đây vừa đúng 70 năm, Hội nghị Ban Thường vụ Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay) đã họp và thông qua. Sở dĩ chúng ta có thể khẳng định như vậy là bởi lẽ, Đề cương này – Đề cương về văn hóa Việt Nam với tên thường gọi Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 – không chỉ là một văn kiện lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa tiến bộ, thực sự nhân văn và dân chủ, mà còn thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta đối với sự phát triển của đất nước, của dân tộc ngay từ khi cách mạng Việt Nam còn chưa giành được chính quyền.([1])Hơn nữa, Đề cương này, trong quan niệm của Đảng ta, trong nhận thức của mỗi chúng ta, chính là Cương lĩnh đầu tiên của công cuộc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam – nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Và, với tư cách đó, trong suốt chặng đường lịch sử 70 năm qua, Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn là Cương lĩnh đầu tiên mang giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.

Thật vậy, cho đến nay, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đi trọn một chặng đường lịch sử 70 năm. Suốt chặng đường 70 năm với biết bao biến cố lịch sử mà dân tộc Việt Nam đã trải qua, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào của công cuộc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, chúng ta đều nhận thức lại để trên cơ sở đó, đưa ra những nhận thức mới về các ý tưởng, nội dung tiềm tàng của Đề cương này.

Kỷ niệm 70 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943 – 2013), trong bài viết này, một lần nữa, chúng tôi muốn khẳng định giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Đề cương này đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay. Và, để làm rõ giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Đề cương này, trước hết chúng tôi muốn nói về bối cảnh ra đời của nó.

Đó là bối cảnh chính trị - xã hội đầy phức tạp ở nước ta trong những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai đã bùng nổ, phát xít Nhật tràn vào nước ta với mưu đồ thay thế thực dân Pháp thống trị Việt Nam. Sự kiện này đã buộc dân tộc ta phải đương đầu với hai thế lực đế quốc hùng mạnh là Pháp và Nhật trong cuộc đấu tranh giải phóng, giành độc lập dân tộc. Khi đó, trên mặt trận tư tưởng – văn hóa, chúng ta phải đối diện với những diễn biến hết sức phức tạp. Thực dân Pháp và phát xít Nhật tiếp tục thực hiện chính sách văn hóa nô dịch, ngu dân, phản động. Đồng thời, chúng còn ra sức tuyên truyền, gây thanh thế cho văn hóa Pháp, Nhật và sử dụng thứ văn hóa ngoại lai này để ru ngủ tinh thần đấu tranh và ý thức dân tộc của thanh niên, trí thức, văn nghệ sĩ nước ta. Việc chúng thi hành chính sách kiểm duyệt gắt gao đối với những tài liệu, sách báo mà chúng ta xuất bản công khai và thẳng tay đàn áp những nhà hoạt động văn hóa tiến bộ, có tư tưởng yêu nước đã khiến cho một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ nước ta trở nên hoang mang, dao động, bế tắc trước thời cuộc và một số không ít trong bộ phận này đã tỏ rõ quan điểm duy tâm, thần bí, tư tưởng cải lương tư sản, thậm chí còn có người đã công khai đả kích chủ nghĩa Mác – Lênin và văn hóa vô sản. Trong bối cảnh đó, văn hóa Việt Nam đã lâm vào tình trạng lai căng, hỗn loạn, chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa thực dân, phát xít, bản sắc văn hóa dân tộc lâm vào nguy cơ bị mai một. Nhiều xu hướng, chính kiến cực kỳ phức tạp và rối ren đã xuất hiện. Bên cạnh xu hướng sùng bái văn hóa Pháp đã xuất hiện xu hướng đề cao văn hóa Nhật; thuyết Âu hóa đan xen với thuyết Đại Đông Á; tư tưởng mácxít giả hiệu chen lẫn tinh thần dân tộc; các quan điểm triết học duy tâm, thần bí, định mệnh cùng tồn tại với quan điểm siêu hình, máy móc và thái độ chán chường, lối sống trụy lạc. Bị chi phối một cách khá nặng nề bởi các trào lưu triết học phương Tây hiện đại, như chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh..., trên văn đàn công khai đã xuất hiện không ít những thứ văn chương suy đồi, mang nặng tư tưởng tiêu cực, quan điểm duy tâm, thần bí, siêu hình, phản khoa học, ngợi ca lối sống cá nhân vị kỷ, cực đoan, xa rời các giá trị truyền thống dân tộc. Đời sống tinh thần của dân tộc ta khi đó bị bao phủ bởi một bầu không khí ảm đạm. Nền văn hóa Việt Nam vốn mang nặng “tính chất phong kiến, nô dịch” và “về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản” nay lại bị những thủ đoạn, chính sách văn hóa thực dân, phát xít trói buộc, nô dịch nên nguy cơ tha hóa, đánh mất bản sắc dân tộc, làm mai một các giá trị truyền thống lại càng thêm trầm trọng. “Tính chất phong kiến, nô dịch trong văn hóa Việt Nam mạnh lên, nhưng đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ, xu trào văn hóa mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nảy nở”(2).

Trước thực trạng đó của nền văn hóa Việt Nam, của đời sống tinh thần dân tộc, những trí thức, văn nghệ sĩ giàu lòng yêu nước, có tinh thần dân tộc và đông đảo quần chúng nhân dân lao động đều khát khao mong muốn Đảng ta khởi xướng một đường lối văn hóa mới ở Việt Nam.

Đáp ứng nguyện vọng chính đáng đó của đông đảo quần chúng nhân dân lao động và tầng lớp văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước, từ 25 đến 28 tháng 2 năm 1943, tại Võng La, Đông Anh, Hà Nội, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ta đã diễn ra và thông qua Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư của Đảng khi đó là Trường Chinh khởi thảo.

Trên tinh thần “ứng dụng phương pháp linh động của chủ nghĩa Mác – Lênin mà nhận xét tình hình mới”(3), Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ta khi đó đã chỉ rõ: “Vận động văn hóa – Đảng cần phải phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa, đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Huế, v.v. phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức (ví dụ có thể tổ chức những nhóm “văn hóa tiền phong”, “nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, “nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam”, v.v.”(4). Và, trong Đề cương về văn hóa Việt Nam được thông qua tại Hội nghị này, sau cách đặt vấn đề (cách hiểu về văn hóa), trình bày khái quát về lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam, chỉ rõ nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật và khẳng định những nội dung căn bản nhất của cách mạng văn hóa Việt Nam, Đảng ta đã xác định rõ những nhiệm vụ cấp bách, những công việc phải làm ngay để thực hiện Đề cương này mà giờ đây, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giới lý luận nói chung, giới nghiên cứu và giảng dạy triết học nói riêng ở nước ta vẫn cần phải tiếp tục thực hiện. Đó là: “Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á, có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở nước ta...”; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Tranh đấu về tông phái văn nghệ... làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng. Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết...” nhằm “thống nhất mọi hoạt động văn hóa tiến bộ dưới quyền lãnh đạo của đảng vô sản mác xít”(5).

Sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong một bối cảnh hết sức đặc biệt như vậy, nhất là với toàn bộ vấn đề, nội dung, nguyên tắc, phương hướng và giải pháp thực hiện mang tầm khái quát lý luận cao và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc được đưa ra trong Đề cương này không chỉ đem lại cho nó địa vị Cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng ta, tạo ra một bước ngoặt mới, mở ra một thời kỳ mới trong đường lối tiến hành cách mạng văn hóa ở nước ta, mà hơn nữa, nó vẫn còn giữ nguyên giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Giá trị lịch sử của Đề cương về văn hóa Việt Nam, trước hết được thể hiện ở chỗ, nó không chỉ cho thấy sự sáng suốt của Đảng ta trong việc đánh giá thực trạng nền văn hóa Việt Nam khi đó, mà còn cho thấy sự sáng suốt của Đảng ta trong việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hóa vô sản, văn hóa xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta, cho thấy lập trường kiên định của Đảng ta khi kế thừa và phát triển trong điều kiện mới tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng nền văn hóa dân tộc” để từ đó, đề ra đường lối tiến hành cách mạng văn hóa trong bối cảnh lịch sử mới và những nguyên tắc cơ bản nhất cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Chính vì thế mà sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam không chỉ đã đóng góp một phần, có thể nói, hết sức quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đem lại nền độc lập cho dân tộc ta, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam còn mở ra một thời kỳ mới trong đường lối tiến hành cách mạng văn hóa và “xây dựng nền văn hóa dân tộc” ở Việt Nam chúng ta – thời kỳ kết hợp chặt chẽ văn hóa với chính trị, giải phóng dân tộc với phát triển văn hóa.(5)

Với Đề cương về văn hóa Việt Nam, lần đầu tiên, Đảng ta đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là quan điểm của V.I.Lênin về văn hóa, cách mạng văn hóa và phát triển văn hóa vào thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam. Theo V.I.Lênin, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải văn minh đã”, “phải đạt tới một trình độ văn hóa nhất định” và do vậy, trước hết cần phải “tiến hành công tác văn hóa trong nông dân” với tư cách một trong “hai nhiệm vụ chủ yếu có ý nghĩa đánh dấu thời đại”; “cần phải có cả một cuộc cách mạng, cả một thời kỳ phát triển văn hóa của toàn thể quần chúng nhân dân”. Và, chỉ khi nào “hoàn thành cuộc cách mạng văn hóa” đó với tư cách công việc “nhất thiết chúng ta phải làm” thì một nước nông nghiệp lạc hậu mới có thể “trở thành một nước hoàn toàn xã hội chủ nghĩa”(6). Khi nói về “Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã khẳng định: Chúng ta “phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã hội” và trong giai đoạn này, nền văn hóa mới Việt Nam do Đảng lãnh đạo xây dựng tuy “chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa hay văn hóa Xôviết (như văn hóa Liên Xô chẳng hạn)”, song “nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”(7).

Với Đề cương về văn hóa Việt Nam, đây cũng là lần đầu tiên, Đảng ta khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng nền văn hóa dân tộc” theo hướng tiến bộ, thực sự nhân văn và dân chủ, mang đậm các giá trị dân tộc truyền thống, nhất là các giá trị đề cao “tinh thần độc lập tự cường”, đạo lý con người và vì “dân quyền” mà từ năm 1942, Người đã đưa ra trong “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”(8). Tiếp tục và phát triển tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng ta đã đưa ra “Ba nguyên tắc” là Dân tộc hóa, Đại chúng hóa và Khoa học hóa cho cuộc vận động xây dựng văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này nhằm chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa để làm cho “văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”, chống lại mọi chủ trương hành động làm cho “văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng” và chống lại tất cả những gì làm cho “văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”(9)

Không chỉ thế, với Đề cương về văn hóa Việt Nam, lần đầu tiên, Đảng ta còn đưa ra những nhận định tổng quát, mang tầm khái quát lý luận cao về lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam qua các thời đại, về thực trạng và nguy cơ tha hóa của nền văn hóa Việt Nam khi đó.

Về lịch sử và tính chất của nền văn hóa Việt Nam, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã chỉ rõ: Từ thời đại Quang Trung trở về trước, nền văn hóa Việt Nam mang tính chất “nửa phong kiến, nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Trung Quốc”. Từ thời đại Quang Trung đến khi thực dân Pháp xâm lược là “văn hóa phong kiến có xu hướng tiểu tư sản”. Thời kỳ từ khi Pháp xâm lược đến 1943 là “văn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn có tính chất thuộc địa”. Nền văn hóa “về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản” đó từ khi có thêm sự xâm lược của phát xít Nhật thì “tính chất phong kiến, nô dịch” đã tăng lên. Đồng thời, do chịu ảnh hưởng của “văn hóa tân dân chủ”, nên “xu trào văn hóa mới của Việt Nam” đang cố vươn lên “để nảy nở”. Nền văn hóa mới Việt Nam do Đảng lãnh đạo tuy “chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa”, nhưng đó là “một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung” và do vậy, nó “cách mạng nhất và tiến bộ nhất ở Đông Dương trong giai đoạn này”(10).

Với sự xác định một cách đúng đắn đó về lịch sử văn hóa Việt Nam và tính chất của văn hóa Việt Nam thời kỳ này (1943), khi chỉ rõ những nguy cơ của nó dưới ách thống trị và chính sách nô dịch văn hóa của thực dân Pháp và phát xít Nhật, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã nêu lên “ hai ức thuyết” về tiền đồ văn hóa Việt Nam. “Hai ức thuyết” đó là: Thứ nhất, nếu "văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa)” chiến thắng trước văn hóa dân tộc thì “văn hóa dân tộc Việt Nam nghèo nàn thấp kém”; thứ hai, khi văn hóa dân tộc Việt Nam cởi bỏ được xiềng xích của văn hóa thực dân, phát xít, thoát ra khỏi ảnh hưởng của sự nô dịch văn hóa nhờ thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo, nó tất yếu vươn lên và “sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”(11).

Có thể nói, đó là một dự đoán sáng suốt về tiền đồ văn hóa Việt Nam – dự đoán được đưa ra từ quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin về sự phát triển của văn hóa vô sản, từ tư tưởng Hồ Chí Minh về “xây dựng nền văn hóa dân tộc” ở Việt Nam. Với dự đoán này, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã xác định cuộc cách mạng văn hóa ở Việt Nam do Đảng lãnh đạo là cuộc cách mạng văn hóa theo đường lối xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa mới Việt Nam cần phải xây dựng trong tương lai là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Giá trị lịch sử của Đề cương về văn hóa Việt Nam còn được thể hiện rõ ngay trong cách mà Đề cương này đưa ra định nghĩa văn hóa và xác định mối quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực hoạt động khác của con người trong đời sống xã hội.

Cho đến nay, chúng ta đã có hàng trăm, hàng nghìn cách hiểu và định nghĩa về văn hóa, cả theo nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp mà ở đó, không phải không có những quan điểm trái ngược nhau. Định nghĩa, cách hiểu về văn hóa mà Đề cương về văn hóa Việt Nam đưa ra là theo nghĩa hẹp, nghĩa giá trị tinh thần: “Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Còn về mối quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác trong hoạt động xã hội của con người, Đề cương này đã khẳng định văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế và chính trị: “Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ chính trị dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc)”; “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(12).

Với cách hiểu, định nghĩa như vậy về văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế, cách mạng văn hóa với cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã xác định rõ cách mạng văn hóa là một bộ phận của cách mạng giải phóng dân tộc, của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới. Để cách mạng văn hóa đi đến thắng lợi thì nó cần phải và nhất thiết phải được đặt trong quỹ đạo của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa do chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam – Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương lúc bấy giờ) – lãnh đạo. Trên tinh thần đó, Đề cương về văn hóa Việt Nam khẳng định: “Cách mạng văn hóa chỉ có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công”, nghĩa là “cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị” và mọi “phương pháp cải cách văn hóa” được đề ra, được xác định trong cuộc cách mạng văn hóa này đều phải phục tùng, phục vụ cách mạng chính trị, “dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau” – cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu lâu dài là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do vậy, để có “điều kiện phát triển”, “cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng” và cũng chỉ có trên cơ sở dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam, chúng ta mới có thể, “trong trường hợp may mắn nhất”, “đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập” để từ đó, “dựng một nền văn hóa mới” – nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(13).

Không chỉ thế, khi xác định rõ cách mạng văn hóa Việt Nam là một bộ phận cấu thành không thể thiếu, có mối quan hệ hữu cơ và gắn bó chặt chẽ với cách mạng giải phóng dân tộc, với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tương lai, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã khẳng định, cách mạng văn hóa không chỉ có nhiệm vụ thúc đẩy cách mạng giải phóng dân tộc đến thành công, mà còn có nhiệm vụ vươn lên thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo và xây dựng chế độ xã hội mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Trên tinh thần đó, Đề cương này đã nhấn mạnh: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã hội”(14). Và, để hoàn thành cuộc cách mạng văn hóa với ý nghĩa lớn lao này, với vị trí và vai trò hết sức quan trọng này, chúng ta cần phải “thống nhất mọi hoạt động văn hóa tiến bộ dưới quyền lãnh đạo của đảng vô sản mácxít”(15).

Giá trị to lớn của Đề cương về văn hóa Việt Nam không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà còn có ý nghĩa thời đại. Quan điểm mà Đảng ta đưa ra trong Đề cương này về cách nhìn nhận, cách hiểu văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế, giữa cách mạng văn hóa với cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế, giờ đây vẫn đúng khi mà, trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”(16). Rằng, chăm lo phát triển văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội; thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt, có hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thì chúng ta không thể có được sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Và, để phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay của cách mạng nước ta, chúng ta cần phải “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam  tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”(17). Và do vậy, cần phải “tạo bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội”; “tăng đầu tư Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển văn hóa, xã hội”; “phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”(18).

Giá trị lịch sửý nghĩa thời đại của Đề cương về văn hóa Việt Nam không chỉ dừng lại ở đó, mà còn ở chỗ, trong Đề cương này, Đảng ta đã khẳng định, nền văn hóa mới Việt Nam do Đảng lãnh đạo tuy chưa phải là “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, nhưng ở thời điểm đó, nó là nền văn hóa “cách mạng nhất và tiến bộ nhất ở Đông Dương” và về tính chất, nội dung, nó là nền văn hóa “có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”. Trên tinh thần đó, khi đề cập đến phương thức tiến hành cuộc cách mạng văn hóa này, Đề cương đã đưa ra “ba nguyên tắc hoạt động” là: Dân tộc hóa, Đại chúng hóa và Khoa học hóa.

Giá trị lịch sửý nghĩa thời đại của quan điểm này trong Đề cương về văn hóa Việt Nam là ở tính định hướngvai trò gợi mở của nó. Tiếp thu quan điểm này và phát triển ba nguyên tắc – Dân tộc, Đại chúng, Khoa học lên một tầm cao mới, ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa mới Việt Nam mà chúng ta cần phải xây dựng và phát triển đã được Đảng ta xác định là “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Tiên tiến ở đây là: Yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Và, tiên tiến ở đây không chỉ về nội dung tư tưởng, mà cả trong hình thức hiểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Còn bản sắc dân tộc thì bao gồm tất cả những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam – những giá trị và tinh hoa đã được dân tộc Việt Nam hun đúc nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó không chỉ là lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, mà còn là lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý và đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Bản sắc dân tộc này của văn hóa Việt Nam không chỉ đậm nét trong nội dung thể hiện, mà cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

Giá trị lịch sửý nghĩa thời đại của Đề cương về văn hóa Việt Nam là ở đó, ở cách hiểu, cách xác định phạm vi của văn hóa, mối quan hệ của văn hóa với các lĩnh vực hoạt động khác của con người trong đời sống xã hội; ở tính định hướng và vai trò gợi mở của nó trong việc xác định phương thức, cách thức tiến hành cách mạng văn hóa và những nguyên tắc nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đời sống văn hóa, nền văn hóa mới ở Việt Nam. Do vậy, Kỷ niệm 70 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, việc một lần nữa khẳng định giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Đề cương này, có thể nói, không chỉ là cần thiết, mà còn có thể giúp ích cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay. q

 


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

([1]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.75-76.

([2]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, t.7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.317.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.272.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.301.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.320-321.

(6) Xem: V.I.Lênin. Toàn tập, t.45. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.424, 428, 429.

(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, t.7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.318-319.

(8) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.431.

(9) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, t.7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.319.

(10) Xem:  Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.316 -317, 319,320.

(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.318.

(12)  Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.316.

(13) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.318, 319.

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.318.

(15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.321.

(1[6]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương  khóa VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55.

(17) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106.

(18) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.124,126.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: Tầng 11, 12 nhà A, Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007