Việc làm sáng tỏ nội dung triết học của phân tâm học Freud có một ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu di sản lý luận của ông, bởi vì chính nó cho phép chúng ta xác định được vị trí đặc biệt của phân tâm học Freud trong dòng chảy của văn hóa tinh thần phương Tây, cũng như ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà hàng loạt nhà tư tưởng đã nhấn mạnh ý nghĩa và tính cấp thiết của phân tâm học. E.Fromm cho rằng, khi giữ lại nội dung phê phán của mình, phân tâm học có thể thúc đẩy nhận thức về con người. Theo J.Gedo, mặc dù không hoàn toàn đáp ứng được tiêu chí của sự nhận thức khoa học đầy đủ và chặt chẽ về con người, lý thuyết phân tâm học vẫn có ý nghĩa gợi mở lâu dài. Các tác giả khác lại cho rằng, cần phải ngăn chặn thái độ phủ định sạch trơn đối với toàn bộ học thuyết Freud và đề nghị chúng ta cần quan tâm một cách thỏa đáng đến nội dung triết học của học thuyết này([1]).
Vấn đề là ở chỗ, nếu như với tư cách một học thuyết y học về bệnh tâm thần, phân tâm học Freud không có gì đáng phải hoài nghi, thì nội dung triết học, tính có liên quan về cội nguồn và cách tiếp cận của nó với triết học lại nhận được những đánh giá trái ngược nhau ở các nhà tư tưởng khác nhau và ở bản thân Freud (ít nhất là về mặt văn bản). Thực tế này đã cản trở chúng ta trong việc đưa ra một cái nhìn sâu sắc và nhất quán về vị trí của học thuyết Freud trong dòng chảy chung của triết học phương Tây, và đối với việc luận giải ảnh hưởng thực sự sâu rộng của nó đến hàng loạt trào lưu triết học phương Tây hiện đại.
Để làm rõ vấn đề này, trước hết chúng ta cần khái quát những đánh giá trái ngược nhau về nội dung triết học của phân tâm học Freud. Có thể phân biệt ba cách đánh giá khác nhau sau đây:
Thứ nhất, phân tâm học thực sự không phải là triết học về con người và bản thân Freud đã hoàn toàn bác bỏ triết học, thậm chí còn là người chống lại triết học(2). Các đại diện của cách đánh giá này đều khẳng định phân tâm học Freud chỉ dựa trên những dữ liệu quan sát lâm sàng. Theo họ, cội nguồn của phân tâm học chỉ là các quan điểm tâm thần học và sinh lý học cuối thế kỷ XIX, còn các tư tưởng triết học thì hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến Freud, bởi ông không chỉ luôn giữ thái độ cảnh giác đối với những suy tư triết học trừu tượng, mà còn chưa bao giờ quan tâm đến các tác phẩm triết học. Chẳng hạn, J.Brown và Ch.Hanly đều khẳng định Freud không có một quan điểm triết học nào, phân tâm học không phải là triết học(3). Rằng, mọi nghiên cứu cố gắng xác lập sự tương đồng giữa các tư tưởng phân tâm học với những suy tư triết học của Schophenhauer và Nietzsche đều là do hiểu nhầm, bởi chính Freud luôn công khai tuyên bố quan điểm của các nhà triết học này không ảnh hưởng gì đến việc hình thành phân tâm học và ông không hề biết tác phẩm nào của họ, khi xây dựng các luận điểm cơ bản của phân tâm học. Với quan điểm đó, W.Hollicher cho rằng, ngoài cái vẻ tương đồng bề ngoài với phân tâm học, triết học đương đại “không có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển các tư tưởng của Freud”(4).
Thứ hai, vốn không phải là triết học, song phân tâm học vẫn đòi hỏi phải được xem xét về phương diện triết học và Freud cần phải được xem là nhà khoa học đã đặt ra các vấn đề triết học và cố gắng luận giải chúng theo cách riêng của mình. Chẳng hạn, theo P.Ricoeur, “nếu phân tâm học không phải là một bộ môn triết học, thì ít nhất nó cũng là bộ môn dành cho các nhà triết học”(5). H.Loewald, S.Kahn và G.Levin cho rằng, những suy tư về phân tâm học là hữu ích, Freud là nhà thực hành có triết lý và những mặc tưởng của ông về các vấn đề truyền thống của triết học là súc tích và sâu sắc(6). Với St.Goldberg, “xung lượng triết học” là cái đặc trưng cho các tác phẩm của Freud(7). Cách đánh giá như vậy, các tác giả này đã đi đến kết luận rằng, một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến sự hình thành các quan điểm phân tâm học khác nhau. Những suy tư về con người của Plato, Aristotes, Schopenhauer, Nietzsche, v.v. đã kích thích Freud xây dựng nên học thuyết phân tâm học.
Thứ ba, triết học xuyên suốt tất cả các tư tưởng và quan điểm của Freud và phân tâm học luôn bao hàm một “lược đồ triết học”, một “hạt nhân triết học”, hay một “cơ sở triết học” riêng, một quan điểm triết học hoàn toàn xác định về con người, lịch sử và văn hóa(8). Rằng, ngay từ những năm 1950, trong tác phẩm “Tình dục và nền văn minh”, H.Marcuse đã đặt ra mục đích góp phần phát triển triết học của phân tâm học(9). E.Fromm thì kêu gọi phát triển thực chất của học thuyết Freud theo con đường xét lại có phê phán cơ sở triết học của nó(10). Còn theo R.Schafer và G.Klein, ẩn náu ở đằng sau cấu trúc khoa học của phân tâm học là một triết học về con người, văn hóa và lịch sử ít nhiều rõ ràng, chủ đích của Freud là xây dựng lý thuyết chung về tinh thần với tư cách một “lược đồ” triết học có quan hệ với triết học về khoa học(11). Thậm chí, Giám đốc Trung tâm giảng dạy phân tâm học New Yord - R.Fine còn khẳng định, “phân tâm học có thể được xem là hệ thống triết học thay thế cho tất cả các trào lưu trước đó trong triết học”(12).
Từ các cách đánh giá trên, một vấn đề đặt ra là cần phải xem xét lập trường của bản thân Freud. Khi đề cập đến lịch sử phát triển của phân tâm học, Freud đã dứt khoát tuyên bố: Trong suốt quá trình xây dựng học thuyết của mình, ông hoàn toàn độc lập, không biết đến một ảnh hưởng nào dẫn ông đến những khám phá ấy(13). Trong một số tác phẩm của mình, Freud có trực tiếp viện dẫn Schopenhauer(14), song ông vẫn kiên quyết khẳng định mình chỉ “đọc Schopenhauer vào giai đoạn cuối đời”! Freud cũng có thái độ tương tự đối với Nietzsche. Một mặt, ông thường viện dẫn Nietzsche trong các tác phẩm của mình; mặt khác, ông lại nhấn mạnh rằng, các tư tưởng của Nietzsche không có ảnh hưởng đến việc hình thành phân tâm học(15).
Đây là những phát ngôn có chủ ý của Freud nhằm bác bỏ ảnh hưởng của Schopenhauer và Nietzsche đến việc ông xây dựng phân tâm học, bởi có những bằng chứng cho thấy ông đã làm quen với các tác phẩm của hai nhà triết học này từ thời sinh viên và đã có hiểu biết nhất định về tư tưởng triết học của hai nhà triết học này(16). Vào thời sinh viên, Freud đã nghe 5 bài giảng về triết học Brentano giảng dạy. Và, Brentano đã có ảnh hưởng lớn đến Freud tới mức ông thừa nhận “tôi quyết định phấn đấu có được bằng tiến sĩ về triết học do ảnh hưởng của Brentano”(17). Theo chỉ dẫn của Brentano, Freud đã dịch tập 12 của J.Mill sang tiếng Đức, trong đó có đề cập tới học thuyết Platon về sự hồi tưởng. Điều này cho thấy sự say mê triết học đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tư duy của Freud.
Những tài liệu được công bố vào đầu những năm 50 (thư từ gửi W.Fliess giai đoạn 1887 – 1902) và các bản thảo về tâm lý học của Freud(18) cho thấy rõ cội nguồn thực sự của phân tâm học. Những bằng chứng đó chứng tỏ thuyết phục rằng, sự say mê các quan điểm thần kinh học để xây dựng tâm lý học khoa học đã làm cho Freud cảm thấy thất vọng về thử nghiệm lý giải những quá trình tâm thần dựa vào sinh lý học và do vậy, ông đã quyết định tìm kiếm các tư tưởng mới có thể trở thành cơ sở cho phân tâm học. Sự quan tâm của Freud đến các tác phẩm triết học xuyên suốt quá trình tìm kiếm này. Và, để thoát ra khỏi bế tắc về mặt phương pháp luận gắn liền với thử nghiệm dịch chuyển các lược đồ thần kinh học và sinh lý học sang lĩnh vực tâm lý học, ông đã làm quen với tác phẩm “Những vấn đề cơ bản của đời sống tâm thần” (1883) của T.Lipps - tác phẩm dành sự quan tâm đặc biệt cho các quá trình tâm thần vô thức. Vào tháng 8 năm 1897, Freud viết thư cho Lipps và gọi ông ta là “trí tuệ lớn nhất trong số các nhà triết học hiện đại”. Nếu như vào giữa những năm 90, Freud lấy làm thất vọng do không hiểu bản chất của các quá trình tâm thần và cơ chế hoạt động của chúng, thì sau khi nghiên cứu các tác phẩm của Lipps, ông đã vui mừng nhận xét rằng, từ thời điểm này, công việc xây dựng học thuyết mới của mình bắt đầu tiến triển rất tốt(19).
Như vậy, những bức thư này đã chứng tỏ Freud quay lại quan tâm đến triết học chính vào thời điểm mang tính bước ngoặt trong sự nghiệp của mình, khi mà những tư tưởng phân tâm học tản mạn không những bắt đầu được phác họa rõ, mà còn được hợp nhất thành một hệ thống những tiền đề đóng vai trò cơ sở cho thuyết phân tâm học. Từ đó, có thể cho rằng, nguồn gốc triết học của phân tâm học đã bộc lộ hoàn toàn rõ ràng và không ai có thể bác bỏ được nguồn gốc đó.
Ảnh hưởng của triết học đến phân tâm học là hiển nhiên, nhưng Freud lại kiên trì phủ nhận sự thực này và thường xuyên tuyên bố tính độc đáo trong những tư tưởng phân tâm học mà ông đưa ra, đồng thời nhấn mạnh không một thế giới quan triết học nào có ảnh hưởng đến sự hình thành phân tâm học, nếu chỉ viện dẫn vào nguồn gốc triết học trong trường hợp tối cần thiết(20).
Còn có những căn cứ quan trọng khác để khẳng định rằng, trong giai đoạn đưa ra những giả thuyết phân tâm học căn bản của mình, Freud không hẳn đã xuất phát từ kinh nghiệm lâm sàng, mà chủ yếu là xuất phát từ những quan niệm triết học về bản chất và các cơ chế hoạt động của tâm thần con người. Đó là:
Thứ nhất, trong các thư gửi Fliess, Freud công khai khẳng định sự thật rằng, các kết cấu lý luận của ông không được tư liệu lâm sàng chứng thực(21). Bất chấp bị thất bại trong thử nghiệm thực chứng đối với các kết cấu lý luận này, song Freud không những không từ bỏ các tư tưởng phân tâm học của mình mà ngược lại, còn tích cực phát triển chúng. Khi đó, phản ứng hoàn toàn không tích cực từ phía một số nhà khoa học đối với tác phẩm “Chú giải giấc mơ” đã được bản thân ông giải thích là do mình “đi trước thời đại 15 - 20 năm”(22). Điều đáng nói ở đây là, khi cố gắng khẳng định phân tâm học là khoa học, Freud đã thường xuyên viện dẫn từ thực tiễn lâm sàng, cố né tránh những lời buộc tội từ phía các nhà khoa học về thử nghiệm xây dựng một học thuyết triết học. Đến lượt mình, các nhà nghiên cứu lại cố giảm thiểu nội dung triết học của phân tâm học để rốt cuộc, đồng nhất phân tâm học với khoa trị liệu lâm sàng.
Thứ hai, trong hàng loạt bức thư, Freud đã thông báo với Fliess về tính chất triết học trong những suy tư của mình đối với các hiện tượng tâm thần. Trong nhiều trường hợp, ông còn nói đến sự cần thiết phải nghiên cứu trên bình diện triết học đối với những luận điểm mới mà ông đang cố gắng xây dựng nhân nghiên cứu tâm thần con người. Chẳng hạn, trong các bức thư được viết vào các năm 1898 – 1899, Freud đã thông báo cho Fliess biết ý tưởng của mình về lần xuất bản mới các chương mục viết về giấc mơ mà “rốt cuộc, mang tính triết học”, cũng như kế hoạch liên quan đến việc viết “chương triết học cuối cùng”(23). Hơn nữa, ngay từ đầu, nghiên cứu phân tâm học đã không chỉ mang tính triết học, mà còn theo đuổi mục đích đạt tới “hy vọng thầm lặng” là “tôi thầm lặng ấp ủ nuôi hy vọng đạt tới mục đích ban đầu của mình là triết học theo chính các con đường đó”(24), là xây dựng nhân học triết học khác về căn bản so với các hệ thống triết học trước đó.
“Hy vọng thầm lặng” xem xét tồn tại người trong thế giới và rốt cuộc là xây dựng triết học phân tâm học của Freud đã thực sự được thực hiện trong tác phẩm đầu tay của ông “Chú giải giấc mơ” - tác phẩm đánh dấu sự ra đời của phân tâm học(25). Trong tác phẩm này và các tác phẩm sau đó, tư liệu lâm sàng chỉ được Freud sử dụng như “cái nền kinh nghiệm” để luận chứng và gia cố thêm cho các giả thuyết phân tâm học đưa ra trước đó. Mọi dữ liệu lâm sàng đều được luận giải từ góc độ các giả thuyết phân tâm học. Theo đó, có thể nói, ở đây đã xuất hiện “cái vòng tròn phân tâm học” được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tự luận chứng. Song, điều quan trọng ở đây là thông qua các dữ liệu tự phân tâm và dữ liệu lâm sàng, Freud đã cố gắng đem lại cho những suy tư phân tâm học của mình tính chất khái quát không thể là gì khác ngoài triết học với tư cách nền tảng của phân tâm học.
Phát hiện triết học phân tâm học không đơn giản, vì nó luôn bị che đậy bởi vô số luận giải về dữ liệu lâm sàng và tự phân tâm. Thêm vào đó, với ấp ủ “hy vọng thầm lặng” là xây dựng triết học phân tâm học của riêng mình, Freud đã cố gắng đem lại cho nó một hình thức hoàn toàn khác với các tư biện siêu hình học đáng hoài nghi, cố tạo ra sự tin tưởng nhờ nghiên cứu khoa học chặt chẽ, hoàn hảo dựa trên kinh nghiệm lâm sàng. Từ điều này, chúng ta có thể giải thích được vì sao Freud đã “lãng quên” nguồn gốc triết học của phân tâm học. Và, đó là do ông muốn tự thể hiện dưới mắt mọi người mình là một nhà khoa học chân chính, xây dựng học thuyết của mình không phải dựa trên những tư biện trừu tượng đáng hoài nghi vốn có ở nhiều nhà triết học, mà dựa trên tư liệu kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn lâm sàng, từ cuộc sống hiện thực. Do vậy, ông đã luôn kiên trì và cố gắng đến mức tối đa để công khai khước từ triết học và tuyên bố ý định đặt lên hàng đầu tư liệu lâm sàng hay kết quả tự phân tích trong các tác phẩm của mình.
Trên thực tế, từ các tác phẩm đầu tay cho tới các tác phẩm cuối đời, Freud luôn tuân thủ một định hướng là xuất phát từ các tư tưởng triết học và xem xét chúng một cách có phê phán nhằm xây dựng phân tâm học với tư cách một học thuyết có hình thức khác với các hệ thống triết học đã có và về thực chất, là xây dựng một triết học mới về phân tâm học. Điều đáng nói ở đây là, trước khi luận chứng cho các luận điểm phân tâm học của mình, ông luôn hoài nghi và thậm chí, còn phỉ báng các học thuyết triết học đã có. Theo ông, người ta không thể tiến lên được, nếu “không đoạn tuyệt với các quyền uy triết học đã có”(26).
Như vậy, toàn bộ vấn đề là ở chỗ, Freud luôn cố che đậy nhãn quan của độc giả khi họ đọc các tác phẩm của ông và nhãn quan của những người tôn thờ phân tâm học nhưng lại không am hiểu triết học, bằng những lời tuyên bố ông không chịu ảnh hưởng của những tư tưởng triết học đã có. Song, “hy vọng thầm lặng” là xây dựng một triết học mới - triết học phân tâm học của ông, lại vô hình chung và liên tục được thực hiện thông qua lĩnh vực bệnh học tâm thần rối rắm cho tới khi nó trở thành một học thuyết toàn vẹn về con người và thế giới con người sâu rộng không kém gì các học thuyết triết học nổi tiếng nhất trong lịch sử. Trình bày dưới hình thức phân tâm học quan niệm của mình về hiện tượng tinh thần, về nguồn gốc của tôn giáo và nghệ thuật, cố gắng xây dựng các quy định đạo đức và xã hội cho cuộc sống con người, đồng thời luận giải lịch sử phát triển của văn minh nhân loại, Freud đã thông qua đó, định hình sẵn các định hướng thế giới quan cho triết học phân tâm học và đưa chúng vào văn hóa phương Tây một cách thầm lặng, dưới dạng phân tâm học như một khoa học.
Vậy, tại sao Freud lại chỉ thừa nhận “hy vọng thầm lặng” đặt vào triết học và luôn công khai tuyên bố đoạn tuyệt với mọi triết học, kiên quyết không cho phép ai được đồng nhất phân tâm học với triết học? Đó là bởi: Thứ nhất, Freud muốn né tránh mọi hoài nghi về sự liên quan của phân tâm học với những tư biện triết học và do vậy, ông đã cho phép mình quyền được giữ im lặng về cội nguồn triết học của phân tâm học. Thứ hai, Freud muốn những người xung quanh ông hiểu việc được coi là nhà triết học đối với ông hoàn toàn không phải là sự đánh giá tối ưu dành cho một bác sĩ thực hành mà tên tuổi đã gắn liền với việc sáng tạo ra một khoa học mới. Đúng như nhà văn Pháp - Jean de La Bruyère đã nói, “trở thành một nhà triết học là điều tốt đẹp, song nổi danh với tư cách nhà triết học thì lại không có quá nhiều ích lợi”(27).
Sau nhiều suy ngẫm, tìm tòi và hoài nghi, Freud đã tìm thấy một lối thoát hợp lý. Con đường thầm lặng dẫn tới triết học nằm trong chính lĩnh vực chuyển từ y học sang tâm lý học và sau đó, sang siêu tâm lý học (metapsychologie). Chính việc Freud quan tâm tới siêu tâm lý học đã trở thành mốc đánh dấu sự ra đời của phân tâm học trong tư thế quay lưng lại với triết học trước kia và mở ra triển vọng cho một triết học - triết học phân tâm học. Freud giải quyết vấn đề này bằng cách: “Biến siêu hình học thành siêu tâm lý học”(28).
“Siêu tâm lý học Freud” là một trong các khái niệm ít được quan tâm nghiên cứu nhất, và cũng là khái niệm làm xuất hiện nhiều luận giải khác nhau và đa nghĩa. Bản thân thuật ngữ này được Freud đưa ra vào năm 1896, tức là vào thời điểm ông đang đứng ở ngã ba đường khi tìm kiếm các tư tưởng hữu ích để lý giải các quá trình tâm thần. Sau đó, Freud không chỉ khẳng định tính đúng đắn của con đường mà ông đã lựa chọn và tính hợp lý của việc sử dụng khái niệm “siêu tâm lý học”, mà còn nỗ lực luận chứng cho siêu tâm lý học như tiền đề xuất phát để nhận thức phân tâm học về tâm thần con người.
Điều đáng lưu ý ở đây là, trong phân tâm học thì siêu tâm lý học, về thực chất, là quan niệm triết học về con người không phải như thực thể biệt lập, tách rời khỏi thế giới, mà như những cá nhân có can dự vào các mệnh lệnh đạo đức và các quan hệ văn hóa - xã hội tác động đến quá trình triển khai thế giới nội tâm và hình thành nên các khuôn mẫu ứng xử của nó. Siêu tâm lý học Freud vừa chống lại siêu hình học, vừa là triết học phân tâm học mà dẫu bị che đậy nhưng vẫn là trung tâm hợp nhất các quan niệm tản mạn của Freud về tâm thần con người, về động cơ hoạt động của con người, các nền tảng đạo đức của cá nhân và những quan hệ văn hóa - xã hội gắn liền với tồn tại người trong thế giới.
Siêu tâm lý học Freud, theo đúng nghĩa của từ này, không phải là cái gì khác ngoài phương thức thoát ra khỏi tâm lý học để thâm nhập vào lĩnh vực triết học và là sự kết thúc bước chuyển của Freud từ y học thông qua tâm lý học đến triết học. Dưới hình thức che đậy của mình, dưới tên gọi “siêu tâm lý học”, triết học phân tâm học, theo đúng nghĩa của nó, thực sự là trung tâm mà ở đó, Freud đã trình bày phân tâm học về mặt lý thuyết. Xét về mặt lý thuyết, “tâm thế triết học” có nghĩa là bước chuyển “nội tâm” của Freud từ y học sang tâm lý học và siêu tâm lý học, còn cấu trúc “bên ngoài” của phân tâm học thì gắn liền với việc dịch chuyển các phương pháp và thủ thuật nghiên cứu phân tâm học về tâm thần con người vào lịch sử, văn hóa, tôn giáo, thần thoại, văn học và nghệ thuật. Bản thân Freud cũng đã nói rằng, “Chú giải giấc mơ” và các tác phẩm khác, “ngay từ đầu đã cho thấy, phân tâm học không dừng lại ở lĩnh vực y học, mà có thể được áp dụng vào các lĩnh vực khác nhau của các khoa học về tinh thần”(29). Sau này, việc Freud hướng trọng tâm vào khảo cứu các tác phẩm nghệ thuật, các tín ngưỡng và lịch sử phát triển của loài người không phải là bước chuyển đột ngột từ y học sang nhận thức siêu tâm lý học về chúng, mà thể hiện ra là nghiên cứu có lôgíc nhất quán và có mục đích rõ ràng từ trước, được định sẵn bởi định hướng “nội tâm” của ông vào triết học phân tâm học như mục đích khởi thủy mà trong các nghiên cứu lý thuyết, ông thầm lặng ấp ủ và che đậy.
Như vậy, có thể nói, việc nghiên cứu triết học phân tâm học mà bản thân Freud luôn cẩn thận che đậy là một công việc nan giải, đòi hỏi phải có sự quan tâm tối đa không chỉ tới mục đích và các luận điểm chung của Freud, mà cả tư liệu được chú giải trong các tác phẩm của ông. Những trở ngại đó có thể tạo ra cảm giác bực tức ở người nghiên cứu, cản trở họ nhận diện đối tượng nghiên cứu. Đúng như J.Maritain nhận xét, “không có gì khó chịu hơn khi nói về thứ triết học mà lại công khai không thừa nhận mình là triết học”(30). Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không có nghĩa là cần phải bỏ qua triết học phân tâm học. Bởi lẽ, nó không chỉ thực sự tồn tại, mà còn có ảnh hưởng đến toàn bộ văn hóa phương Tây, cũng như đến việc hình thành các trào lưu triết học khác nhau và do vậy, nghiên cứu nó đang trở thành nhiệm vụ cấp bách. q
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
([1]) Xem: E.Fromm. The Crisis of Psychoanalysis. N.Y., 1970, p.4; J.Gedo. Beyond Interpretation: Toward a Revised Theory for Psychoanalysis. N.Y., 1979, p.IX; Psychoanalysis in Dresent-Day Psychiatry. Ed. by. I. Galdston. N.Y., 1969, p. 15; Freud: A Collection of Critical Essays. Ed. by R. Wollheim. N.Y., 1974, p. IX.
([2]) Xem: L.Pervin. Personality: Theory, Assessment and Research. N.Y. etc., 1975, p. 150; Psychoanalysis and Philosophy. Ed. by Ch. Hanly and M. Lazerovitz. N.Y., 2000, p. 40; J.Doncel. Philosophical Antropology. N.Y., 1967, p.266.
(3) Xem: Brown J. Freud and the Post-Freudians. Baltimore, 1961, p. 179; Ch.Hanly. Existentialism and Psychoanalysis. N.Y., 1979, p. 3.
(4) Xem: В.Холличер. Человек и агрессия. Мocxba. 1975, стр. 72.
(5) The Philosophy of Paul Ricoeur: An Anthology of His Works. Ed. by Ch. Reagan & D. Stewart. Boston, 1978, p.104.
(6) H.Loewald. Psychoanalysis and the History of the Individual. New Haven. London, 1978, p. 77; S.Kahn. Essays in Freudian Psychoanalysis. N.Y., 1976, p. 64; G.Levin. Sigmund Freud. Boston, 1975, p.9.
(7) St.Goldbergt. Two Patterns of Rationality in Freud’s Writings. Tuscaloosa and London, 1988, p.171, v.v.
(8) Psychoanalysis and Existential Philosophy: A Group of Articles that Analyse the Important Influence of Existentialism on Modern Psychoanalysis. Ed. by H. Ruitenbeek. N.Y., 1962, p. 7; Yankelovich D., Barret W. Ego and Instinct: The Psychoanalytic View of Human Nature. N.Y., 1970, p 446.
(9) H.Marcuse. Eros and Civilization: A Philosophical Inquiry into Freud. N.Y., 1962, p. 7.
(10) E.Fromm. Greatness and Limitations of Freud’s Thought. N.Y., 1980, p. 22.
(11) Psychoanalysis and History. Ed. by B. Mazlish. Englewood Cliffs (N.J.), 1963, p. 57; R.Schafer. Language and Insight. New Haven, LondonExistential Philosophy: A Group of Articles that Analyse the Important Influence of Existentialism on Modern Psychoanalysis. Ed. by H. Ruitenbeek. N.Y., 1962, p. 7; Yankelovich D., Barret W. Ego and Instinct: The Psychoanalytic View of Human Nature. N.Y., 1970, p 446. Klein G. Psychoanalytic Theory: An Exploration of Essentials. N.Y., 1982, p. 49.
(12) R.Fine. The Psychoanalytic Vision: A Controversial Reappraisal of the Freudian Revolution. N.Y. etc., 1981, p. 509.
(13) З.Фрейд. Очерк психологии любви. Одесса. 1990, стр. 9.
(14) Xem: З.Фрейд. Очерк по психологии сексуальности. Мocxba, 1925, стр. 9; Психоаналитические этюды. Одесса. 1926, стр. 10; По ту сторону принципа удовольствия. Мocxba, 1925, стр. 91; Тотем и табу. Психология первобытной культры и религии. Мocxba, 1923, стр. 98; An Autobiographical Study. London, 1948, p. 110.
(15) Xem: Minutes of the Vienna Psychoanalytic Society, Vol.1: 1906-1908, p.359-360.
(16) Xem: P.Rudnysky. Freud and Oedipus. N.Y., 1987, p.199.
(17) R.Clark. Freud: The Man and the Case. London etc., 1982, p. 34.
(18) Xem: The Complete Letters of Sigmund Freud to Wilhelm Fliess, 1887-1904. Translated and ed. by J. M. Masson. Cambridge (Mass.), London, 1985.
(19) Xem: Ibid., p.324, 325.
(20) З.Фрейд. Основные психологические теории в психоанализе. Москва, 1923, стр. 198.
(21) Xem: The Complete Letters of Sigmund Freud to Wilhelm Fliess, 1887-1904. Translated and ed. by J. M. Masson. Cambridge (Mass.), London, 1985, p. 391.
(22) Ibid., p.405.
(23) Ibid., p.344.
(25) З.Фрейд. О психоанализе. Пять лекции // Хрестоматия по истории психологии. Москва, 1973, стр.166.
(26) З.Фрейд. Остромие и его отношение к бессознательному. Мocxba, 1925, стр. 126.
(27) Ж. де Лабрюйер. Характеры. Мocxba, 1974, cтр. 425.
(28) З.Фреид. Психопатология обыденной жизни. Москва, 1989, стр. 228.
(29) З.Фрейд. Очерк истории психоанализа. Одесса. 1989, стр. 17.
(30) Freud and 20-th Century. Ed select. by B. Nelson. Cleveland – New Yord, 1963, p. 251.