Tìm kiếm

ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG: MỘT VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CẤP BÁCH

01/02/2023

Tạp chí Triết học, số 2, năm 2013

NGUYỄN NGỌC HÀ (*)

Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ là một vấn đề lý luận bức thiết, mà còn là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn thiết thực. Đây là vấn đề có liên quan đến nhiều phương diện cơ bản của thể chế chính trị và vì thế, luôn là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi phải có sự giải đáp khoa học. Trong bài viết này, tác giả tập trung làm rõ ba vấn đề: 1) Chủ trương của Đảng về đổi mới phương thức lãnh đạo; 2) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên thực tế; 3) Vấn đề tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

 

Khi xem xét mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở nước ta hiện nay, chúng ta thường phân biệt ba khái niệm là lãnh đạo, quản lý và làm chủ; đồng thời khẳng định rằng, vai trò lãnh đạo thuộc về Đảng, vai trò quản lý thuộc về Nhà nước và vai trò làm chủ thuộc về nhân dân. Liên quan đến khái niệm lãnh đạo, có các phương diện cơ bản, như chủ thể lãnh đạo, đối tượng lãnh đạo, điều kiện lãnh đạo, nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo. Đối với sự lãnh đạo của Đảng, nội dung lãnh đạo là quan điểm của Đảng về các vấn đề phát triển của đất nước, còn phương thức lãnh đạo là cách thức hiện thực hóa các quan điểm đó. Dù cho có nội dung lãnh đạo đúng, nhưng nếu không có phương thức lãnh đạo phù hợp thì Đảng cũng không thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình. Vì vậy, xác định phương thức lãnh đạo phù hợp là việc làm quan trọng trong hoạt động của Đảng.

1. Chủ trương của Đảng về đổi mới phương thức lãnh đạo(*)

Như chúng ta đã biết, một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, yếu kém trong sự lãnh đạo của Đảng ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới là phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều điểm chưa phù hợp. Chính vì thế, từ Đại hội VI, cùng với việc đổi mới tư duy nói chung, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cũng đã được đặt ra. Văn kiện Đại hội VI cho rằng, Đảng cần đổi mới phong cách làm việc, tác phong đi sâu, đi sát thực tế, nắm bắt thông tin nhanh chóng và chính xác, có chương trình kiểm tra; cán bộ phải đi sâu đi sát cơ sở; cơ quan lãnh đạo phải nắm vững quyền lãnh đạo tập trung, điều hành thống nhất; tăng cường sự lãnh đạo tập thể; mở rộng sinh hoạt dân chủ; nghiên cứu những kinh nghiệm sáng tạo của cơ sở; lắng nghe ý kiến của quần chúng; các chủ trương quan trọng đều phải được bàn bạc và quyết định tập thể; người lãnh đạo phải biết nghe ý kiến trái với mình(1). Tuy ở Đại hội này, khái niệm phương thức lãnh đạo chưa được nói đến, nhưng phong cách làm việc cũng là một nội dung của khái niệm phương thức lãnh đạo.

Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được đặt ra một cách rõ ràng và cấp bách hơn ở Đại hội VII. Văn kiện Đại hội VII đã sử dụng khái niệm “đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng”; đồng thời cho rằng, cần có “quy định cụ thể mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở Trung ương”(2). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII đã xác định phương thức lãnh đạo của Đảng như sau: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”; “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(3). Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII còn nhấn mạnh: “Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua các cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà nước”(4). Tiếp tục tinh thần của Đại hội VII và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, các đại hội sau đó đều coi việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là một nhiệm vụ quan trọng. Đại hội VIII xác định phương thức lãnh đạo của Đảng như sau: “Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc. Đảng lãnh đạo phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước chứ không điều hành thay Nhà nước. Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình”(5). Quan điểm này tiếp tục được bổ sung bởi các Đại hội IX, X và XI. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương, tập thể cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn thảo luận dân chủ, biểu quyết và ra nghị quyết theo đa số những vấn đề quan trọng về đường lối, chủ trương, chính sách, về tổ chức, cán bộ. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân”(6). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X viết: “Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện”; “Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội”(7). Đại hội XI tiếp tục tinh thần của các đại hội trước, khi nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”; “khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo của Đảng với các cơ quan nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung vào lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng”(8).

Như vậy, từ Đại hội VI, đặc biệt là từ Đại hội VII đến nay, Đảng luôn luôn coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo bên cạnh việc đổi mới nội dung lãnh đạo. Nói về tầm quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X viết: “Đổi mới phương thức lãnh đạo là một trong những nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng”(9). Qua các kỳ đại hội, quan điểm của Đảng về đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng cụ thể hơn và hoàn thiện hơn.

2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên thực tế

Việc thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới phương thức lãnh đạo trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu. Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới. Tình trạng Đảng bao biện, làm thay các cơ quan nhà nước đã giảm bớt. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan đảng và một số cơ quan nhà nước đã được quy trình hóa, quy chế hóa(10). Nếu trước đây, Quốc hội chủ yếu hợp thức hóa các chủ trương của Đảng thành quy phạm pháp luật của Nhà nước thì hiện nay, ở nhiều vấn đề, Bộ Chính trị không quyết định trước mà chỉ cho phương hướng để Quốc hội giải quyết, thậm chí có những vấn đề Bộ Chính trị cũng phải thay đổi khi Quốc hội có quyết định khác, nghĩa là Quốc hội càng ngày càng có thực quyền hơn(11). Các cấp uỷ đảng giảm bớt sự can thiệp, áp đặt một cách không cần thiết vào công việc của cơ quan nhà nước; không quyết định các chỉ tiêu, biện pháp cụ thể. Các cơ quan nhà nước tự quyết định phương án, biện pháp tiến hành. Hiện nay, sinh hoạt của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp đã giảm bớt tính thụ động, không còn nặng về sự nhất trí với chủ trương của Đảng như trước. Đối với không ít vấn đề, tuy cấp uỷ đã dự kiến, nhưng các cơ quan nhà nước bổ sung thêm những giải pháp mới hoặc điều chỉnh một số chỉ tiêu, sau đó cấp uỷ xem xét lại và thấy hợp lý. Các cán bộ nhà nước được bầu và bổ nhiệm theo đúng quy định của Nhà nước. Mọi người ngày càng thấy rõ rằng, không thể duy trì lối lãnh đạo theo kiểu áp đặt, bao biện, làm thay Nhà nước như trước. Những điều này khác xa so với trước đổi mới(12). Về thành tựu trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Văn kiện Đại hội XI khẳng định: “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát”(13).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn hạn chế. Hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và đối với từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước chưa được hoàn thiện. Sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và lúng túng; chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế. Ở nhiều nơi vẫn còn tình trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước. Nhiều cán bộ nhà nước khi giải quyết công việc gì cũng xin ý kiến chỉ đạo của Đảng; cũng thụ động, chờ đợi sự chỉ đạo của Đảng. Khi tổng kết công tác xây dựng Đảng trong các năm 2001 - 2006, Đại hội X khẳng định: “Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng. Chậm nghiên cứu và ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước; chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng. Chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc, thực hiện nói đi đôi với làm; tình trạng nói nhiều làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm còn diễn ra ở nhiều nơi”(14). Về hạn chế trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI viết: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng”(15).

Hạn chế cơ bản của phương thức lãnh đạo của Đảng thể hiện trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Trên lý thuyết thì có sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý; Đảng lãnh đạo chứ không quản lý; Nhà nước quản lý chứ không lãnh đạo. Nhưng trên thực tế vẫn còn tình trạng “Đảng bao biện, làm thay Nhà nước”. Khi Đảng làm thay Nhà nước thì Đảng thực hiện chức năng quản lý, chứ không phải chức năng lãnh đạo. Việc “Đảng làm thay Nhà nước” là hạn chế lớn nhất trong phương thức lãnh đạo của Đảng ở một số cơ quan nhà nước.(15)

3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Những hạn chế còn tồn tại trong phương thức lãnh đạo của Đảng đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo. Sự cần thiết của việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là điều đã rõ ràng. Nhưng, vấn đề phức tạp là đổi mới như thế nào?

Trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo hướng khắc phục tình trạng Đảng làm thay Nhà nước, năm 2009, một số địa phương đã tiến hành thí điểm nhất thể hoá chức danh bí thư và chức danh chủ tịch uỷ ban nhân dân ở cấp xã, phường (tức là bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân). Từ thí điểm này, có ý kiến cho rằng, với mô hình bí thư và chủ tịch là hai người khác nhau, công tác lãnh đạo của cấp ủy và sự điều hành của chính quyền thường phải qua nhiều khâu trung gian; phải họp hành liên miên; bí thư tích cực, xông xáo một chút lại bị chủ tịch coi là lấn sân, can thiệp công việc của chính quyền. Ngược lại, chủ tịch xốc vác quá mà không khéo léo trong quan hệ lại bị cho là qua mặt cấp ủy. Nếu bí thư ra nghị quyết (giống như vạch ra việc) rồi nhìn để ông chủ tịch làm thì dễ dẫn tới phán xét phức tạp. Thành tích thì vui vẻ chia nhau, nhưng khi có vấn đề thì có khi đùn đẩy trách nhiệm. Khi xảy ra sai phạm, chủ tịch vì là người trực tiếp điều hành nên phải hầu tòa; còn bí thư tuy là người chỉ đạo thông qua tổ chức đảng nhưng lại vô can trước pháp luật. Dù bí thư và chủ tịch chẳng mâu thuẫn gì, nhưng trong hoạt động giữa đảng với chính quyền có nhiều khâu trùng lặp nên hiệu quả hoạt động chung không cao. Với mô hình mới (bí thư và chủ tịch là một người), quyền lực tập trung rất rõ ở người đứng đầu, điều đó tạo thuận lợi hơn trong công tác điều hành. Bí thư vì trực tiếp điều hành chính quyền nên chỉ đạo xây dựng nghị quyết sát thực tiễn hơn. Chủ tịch vì đã quán triệt các nội dung được tập thể cấp ủy thảo luận, thông qua nên chỉ đạo triển khai nhanh chóng và thuận lợi. Vì một người vừa đứng đầu cơ quan lãnh đạo, vừa đứng đầu cơ quan quản lý nên tính nhất quán giữa sự lãnh đạo của cấp ủy với sự quản lý của chính quyền được nâng cao lên rất nhiều. Tình trạng họp hành liên miên giảm đáng kể. Việc gắn hai chức danh bí thư và chủ tịch cũng làm bật lên vai trò và trách nhiệm cá nhân. Tập thể cấp ủy khi đã thảo luận, đề ra nhiệm vụ thì biết rõ ngay bí thư - chủ tịch là người phải triển khai thực hiện. Năng lực, hiệu quả công tác được minh bạch, rõ ràng. Không còn sự tách biệt, đùn đẩy công việc, trách nhiệm nữa(16). Ý kiến trên đây (của người làm công tác thực tiễn) cho thấy tính phức tạp trong mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước ở nước ta. Kết quả thí điểm là một căn cứ thực tiễn chứng minh cho sự cần thiết của việc nhất thể hoá chức danh bí thư và chức danh chủ tịch uỷ ban nhân dân. Việc nhất thể hóa đó có thể là một giải pháp khả thi nhằm khắc phục tình trạng Đảng làm thay Nhà nước; bởi vì khi đó thì chủ tịch làm cũng chính là bí thư làm, hay nói rộng hơn Nhà nước làm cũng chính là Đảng làm.

Một số người không tán thành việc nhất thể hoá chức danh bí thư và chức danh chủ tịch uỷ ban nhân dân vì lo lắng rằng điều đó sẽ dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán của người lãnh đạo. Theo ý kiến này, việc không nhất thể hóa để bí thư có thể kiềm chế sự lạm quyền của chủ tịch hoặc ngược lại. Thực ra, sự chuyên quyền, độc đoán của người lãnh đạo có thể hóa giải được trong bản thân cơ chế của nhà nước pháp quyền. Bởi vì, trong hoạt động của nhà nước pháp quyền có nhiều cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan có thể hạn chế quyền lực và giám sát việc thực hiện quyền lực của cơ quan khác. Đảng và Nhà nước không phải là hai cơ quan quyền lực khác nhau; mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước không phải là mối quan hệ giữa cơ quan giám sát và cơ quan bị giám sát. Nếu nghĩ rằng sử dụng bí thư để kiềm chế sự lạm quyền của chủ tịch hoặc ngược lại thì đó là sự lẫn lộn chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước.

Liên quan đến giải pháp nhằm khắc phục tình trạng Đảng làm thay Nhà nước, Đại hội X của Đảng đã chỉ ra sự cần thiết phải phân định rõ ràng những việc thuộc thẩm quyền quyết định của Đảng và những việc thuộc thẩm quyền quyết định của Nhà nước. Cụ thể, Văn kiện Đại hội X viết: “Đối với Quốc hội, xây dựng cơ chế, quy chế cụ thể giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo về quan điểm, phương hướng, chủ trương, nguyên tắc, giải pháp lớn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (đối với những vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại trọng đại của đất nước) với thẩm quyền quyết định của Quốc hội trên những vấn đề này theo Hiến pháp và Luật tổ chức, hoạt động của Quốc hội”; “Đối với Chính phủ, xác định rõ hơn thẩm quyền quyết định của Chính phủ. Xác định rõ những loại việc ở tầm Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp quyết định; những loại Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến định hướng; những loại việc Chính phủ chủ động quyết định theo thẩm quyền”; “Đối với chính quyền địa phương, định rõ những loại việc ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ cho ý kiến trước khi hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân quyết định thực hiện; những loại việc do ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ cho ý kiến định hướng, hội đồng nhân dân quyết định; những loại việc do hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân quyết định theo thẩm quyền”(17). Việc phân định hai loại việc như thế là cần thiết để khắc phục tình trạng Đảng làm những việc thuộc thẩm quyền của Nhà nước. Đối với những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của lãnh đạo cơ quan nhà nước thì lãnh đạo cơ quan nhà nước chủ động giải quyết. Còn đối với những việc mà lãnh đạo cơ quan nhà nước không được chủ động giải quyết, mà bắt buộc phải giải quyết theo quyết định của Đảng, thì tính phức tạp có thể nảy sinh trong tình huống lãnh đạo cơ quan nhà nước không đồng ý với quyết định cấp ủy Đảng. Trong tình huống đó, cần có thêm các quy chế cụ thể khác; bởi vì lãnh đạo một cơ quan nhà nước có thể không phải là đảng viên, phải chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên và xa hơn nữa phải chịu trách nhiệm trước toàn dân.(20)

*     *

*

Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng liên quan đến nhiều phương diện cơ bản của thể chế chính trị; vì thế có tính phức tạp và nhạy cảm. Tuy nhiên, thực tiễn đang đòi hỏi cấp bách cần có sự giải đáp khoa học vấn đề này. Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng càng được đặt ra cấp bách hơn. Giải quyết đúng đắn và kịp thời vấn đề này sẽ làm cho hoạt động của Đảng và Nhà nước có hiệu quả hơn; nhờ đó đất nước sẽ tiến nhanh hơn đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

([1]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, t.47. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.470-473.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., t.51. tr.120, 121, 124.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam.  Sđd., t.51. tr.147.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. Nxb Chính trị Quốc gia,  Hà Nội, 1994, tr.63.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.75, 149 -150.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 144-145.

(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.137-138.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.60-61.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.111.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban Chấp hành Trung ương. Ban chỉ đạo tổng kết lý luận. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.109.

(11) Xem: Trần Thành. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Triết học, số 4, 2008, tr.6.

(12) Xem: GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS. Tô Huy Rứa, PGS.TS. Trần Khắc Việt (đồng chủ biên). Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.157-158.

(13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Sđd., tr.164 – 165.

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.262-263.

(15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Sđd., tr.175-176.

(16) Xem: Báo điện tử tinmoi.vn, ngày 14/4/2009.

(17) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.306-309.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: Tầng 11, 12 nhà A, Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007