Tìm kiếm

GIA ĐÌNH TRONG TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

25/01/2024

Tạp chí Triết học, số 5, năm 2013

TRẦN ĐÌNH THẢO (*)

LƯỜNG THỊ PÓ (**)

Ngoài việc phân tích, biện giải quan niệm về gia đình trong tư tưởng Nho giáo qua các đại diện tiêu biểu của học thuyết đó, như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử và những luận giải của một số học giả Việt Nam về quan niệm này. Trong bài viết, các tác giả còn đề cập đến ảnh hưởng của quan niệm này đến việc xây dựng gia đình Việt Nam và sự ổn định xã hội, cả những ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực, nhất là những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến mục tiêu xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay.

 

 

Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn với nền văn minh phát triển rực rỡ, đặc biệt là nền văn minh cổ đại. Đây là thời kỳ mà người ta gọi là “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” với nhiều trường phái khác nhau, như Âm dương ngũ hành, Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia, v.v.. Nho gia (hay Nho giáo) thời kỳ Tiên Tần (tức Nho giáo nguyên thủy - sau đây gọi tắt là Nho giáo) với các đại biểu là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử là một học thuyết có nhiều tư tưởng tiến bộ, nhưng chủ trương “hiếu cổ” và bảo thủ. Bất chấp nhiều biến đổi to lớn của xã hội, đương thời, thầy trò Khổng Tử vẫn một mực coi xã hội nhà Chu là tốt đẹp, hợp với đạo trời và ra sức ca ngợi, bảo vệ lễ tiết nhà Chu, bảo vệ trật tự xã hội mà chế độ ấy xây dựng nên. Đó là một trật tự với những yêu cầu khắt khe về danh phận, tôn ti, đẳng cấp, về nghĩa vụ và quyền lợi, v.v. được Nho giáo xây dựng thành một hệ thống chặt chẽ, hà khắc từ thấp đến cao, từ trong gia đình đến đất nước và cả thiên hạ.(*)

Trước hết, cần phân biệt rõ hai khái niệm là “gia” (nhà) và “quốc” (nước).

Xét về mặt ngữ nghĩa, từ “nước” trong tiếng Việt dịch sang tiếng Hán có thể tương đương với hai từ: Một là, từ “quốc” đã rất thông dụng ở Việt Nam, như quốc gia, Tổ quốc; Hai là, từ “bang” mà về mặt ngữ nghĩa là “nước”, (không thông dụng ở Việt Nam, trừ trong một số thành ngữ và điển tích) như bang giao, lân bang... Trong cuốn “Nho giáo xưa và nay”, học giả Quang Đạm đã coi từ “nước” tương đương với từ “gia”. Từ này vốn chỉ tương ứng với từ “nhà” trong tiếng Việt. Nhưng trong lịch sử Trung Hoa cổ đại đã từng tồn tại những nước nhỏ do các quan đại phu cai trị và được gọi là “gia”. Nếu theo nghĩa này, khái niệm “nước” với khái niệm “gia” được dùng gần như đồng nhất. Ngoài ra, người ta còn hay dùng từ ghép “quốc gia” để chỉ nước.

Xét về mặt nhận thức, với phương pháp tư duy tiên đề có tính chất bắc cầu, coi mệnh đề trước là tiền đề để xuất hiện mệnh đề sau, Nho giáo coi nhà chỉ là hình ảnh thu nhỏ của nước; nước xuất phát từ nhà và có nhà là có nước. Nhiều mệnh đề trong “Tứ thư” đã được trình bày theo kiểu bắc cầu, chứng tỏ phương pháp tư duy này đã được sử dụng phổ biến trong đạo Nho. Nhìn vào tám điều kinh điển trong sách “Đại học” được trình bày theo phương pháp này, thì “nước” là bậc thứ bảy trong quá trình làm sáng đức sáng của những người có đạo cao đức trọng trong xã hội. Quá trình đi từ cách vật, trí tri... đến tề gia, trị quốc là quá trình đi từ nhận thức đến hành động, từ lý luận đến thực tiễn, từ thực tiễn hẹp đến thực tiễn rộng. Vì vậy, nếu xét về phương pháp tư duy, về điểm xuất phát là đạo đức học, thì ý kiến cho rằng: “nước là bậc thang cao hơn, từ bậc thang nhà leo lên và là phạm vi rộng hơn từ phạm vi nhà mở ra”(1) là hợp lý, phản ánh đúng tinh thần của Nho giáo. Để hiểu được mục đích trị quốc, bình thiên hạ của Nho giáo, chúng ta cần phải nghiên cứu khái niệm “gia” với tư cách nền tảng, cơ sở của nó.

Khái niệm “gia” của Nho giáo theo nghĩa hẹp được hiểu là “gia đình”, là “nhà”. Còn theo nghĩa rộng, “gia” được hiểu đồng nghĩa với “gia tộc” cùng với các quan hệ họ hàng, bà con hết sức phức tạp. Gia có thể gồm ba họ (tam tộc) hay chín họ (cửu tộc) gắn bó, ràng buộc chặt chẽ với nhau. Dưới chế độ phong kiến, những gia đình và gia tộc có thế lực rất quan tâm đến việc củng cố nhà mình và gia tộc mình nhằm mục đích trở thành những “cự thất” trong vùng và trong nước. Ngoài ra, gia tộc còn chiêu tập những người có tài vào làm gia tướng, môn khách hoặc những người tin cẩn làm gia nô, gia tỳ để tăng thêm vây cánh và thế lực, nhằm mưu đồ vương bá. Vì vậy, trong mỗi gia tộc, ngoài những quan hệ gia đình làm nền tảng, còn có những quan hệ bà con, họ hàng từ gần đến xa và quan hệ giữa chủ nhà với thuộc khách, thuộc hạ, v.v.. Những gia tộc đó đều thuộc tầng lớp trên của xã hội và có ảnh hưởng lớn, đôi khi là quyết định đến sự hưng thịnh hay suy vong của một nước. Nho giáo luôn khẳng định sự ảnh hưởng này. Sách “Đại học” viết rằng, “cả nhà (của bậc quốc trưởng) làm điều nhân thì cả nước sẽ dấy lên không khí nhân ái. Cả nhà (của bậc quốc trưởng) đều lễ nhượng thì cả nước sẽ dấy lên không khí lễ nhượng” (Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân. Nhất gia nhượng, nhất quốc hưng nhượng)(2). Mạnh Tử cũng nói: “Trị nước chẳng khó, chỉ cần đừng để các gia tộc lớn oán trách mình. Nếu những gia tộc lớn yêu quý mến mộ mình, thì cả nước đều yêu quý mến mộ mình. Cả nước yêu quý mến mộ mình, thì cả thiên hạ cũng sẽ yêu quý mến mộ mình” (Vi chính bất nan, bất đắc tội ư cự thất. Cự thất chi sở mộ, nhất quốc chi mộ. Nhất quốc sở mộ, thiên hạ mộ chi)(3). Những luận điểm này chứng minh rõ vai trò quyết định của nhà và cùng một nghĩa với câu “Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà”. Mặc dù Nho giáo có nói dân là quý, dân có thể chở thuyền và có thể lật thuyền, nhưng do đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, bảo vệ cho lễ giáo và trật tự của xã hội phong kiến, nên Nho giáo chưa thật sự nhận thức được vai trò và sức mạnh “cải tạo xã hội” của những con người và gia đình, gia tộc thuộc tầng lớp bị áp bức, bóc lột. Đó là một hạn chế có tính lịch sử của Nho giáo.

Quan điểm của Nho giáo cho rằng, nhà, nước và thiên hạ chỉ khác nhau về phạm vi và quy mô tổ chức, còn về bản chất và cách quản lý, cai trị thì cơ bản là giống nhau. Phan Bội Châu, trong cuốn Khổng học đăng đã khái quát rất chính xác tư tưởng đó của Nho giáo rằng, “nhà tức là cái nước nhỏ, nước tức là cái nhà lớn”(4); “Tề, trị” chỉ có một lẽ, “gia, quốc” chung nhau một gốc”(5). Nghĩa là, Nho giáo coi nước chỉ là hình ảnh mở rộng ra của nhà, giữa nhà và nước có sự liên hệ ràng buộc lẫn nhau, quy định lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Việc chỉ ra những điểm đặc trưng cơ bản để phân biệt “nhà” với “nước” là hết sức cần thiết để thấy được vai trò của mỗi yếu tố đó trong quá trình thực hiện lý tưởng “thiên hạ bình” của Nho giáo. Các sách kinh điển Nho giáo nói nhiều đến “nhà” và những mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà, nhưng không đưa ra được một khái niệm “nhà” cụ thể nào. Nếu chỉ hiểu rằng “nhà là cái nước nhỏ”, nhà - nước - thiên hạ chỉ khác nhau về phạm vi và quy mô, còn bản thể cơ bản là giống nhau..., thì rõ ràng là chưa thỏa đáng. Nói như vậy thì ranh giới phân biệt giữa nhà và nước rất mập mờ, không có một tiêu chí cụ thể nào. Hơn nữa, Nho giáo cũng chưa chỉ ra được những yếu tố cấu thành nhà và cách thức tổ chức gia đình một cách chặt chẽ.(3)

Theo cách hiểu của Nho giáo, kết quả của quá trình vận động trong phạm vi bản thân con người, đưa con người đạt đến đức sáng và đứng vào nơi “chí thiện” - chính là “tu thân”. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc để đi đến tề gia, trị quốc, bình thiên hạ như là những bậc thang từ thấp đến cao, làm tỏa sáng đức sáng của con người ra ngoài phạm vi bản thân mình. Quan niệm về “gia” (nhà) của Nho giáo có một sức mạnh khống chế to lớn đối với con người, có muôn nghìn sợi dây trói buộc con người một cách nghiệt ngã. Trong con mắt của các nhà Nho, nhà còn là gốc của nước và thiên hạ, là cái nền móng vững chắc mà con người cần phải dựa vào đó nếu muốn làm nên nghiệp lớn. Mạnh Tử khẳng định rằng: “Gốc của thiên hạ là quốc gia, gốc của quốc gia là gia tộc và nhà cửa, gốc của gia tộc và nhà cửa là chính bản thân mình vậy” (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân)(6). Tuy nói nhà là gốc nước, nhưng theo quan điểm của Nho giáo, xét đến cùng, con người vẫn là quan trọng nhất và đóng vai trò quyết định.

Như vậy, với luận điểm “nước gốc ở nhà”, Nho giáo muốn xây dựng những mối quan hệ giữa người với người trong nước phỏng theo những mối quan hệ trong gia đình với đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ tương tự. Trong năm mối quan hệ quan trọng nhất của con người (ngũ luân) thì gia đình chiếm ba luân – tức ba mối quan hệ cơ bản là cha - con, chồng - vợ, anh - em. Những quan hệ xã hội khác chỉ là sự mô phỏng, mở rộng của ba mối quan hệ này. Do đó, nếu ba mối quan hệ trong gia đình được củng cố, duy trì tốt sẽ góp phần làm cho nước ổn định, có trật tự và phép tắc. Nho giáo đã định ra những “đức” (chính xác hơn, là những chuẩn mực đạo đức) cho từng mối quan hệ đó là: Cha từ, con hiếu; anh lành, em đễ; chồng có nghĩa, vợ vâng lời. Điều đó cho thấy rằng, thực hiện đúng những chuẩn mực đạo đức đó thì gia đình hoà thuận, yên ấm, có trên có dưới, tôn ti trật tự được đảm bảo. Bởi vì, gốc có vững thì cây mới bền; cái gốc mục nát mà cái ngọn xanh tươi là điều không thể có. Nhận thức rõ điều đó nên Nho giáo rất quan tâm chăm sóc cho cái gốc gia đình. Ngoài những chuẩn mực đạo đức cho từng mối quan hệ, còn có những quy định cụ thể, tỉ mỉ, hà khắc và phức tạp khác trói buộc con người vào lưới đạo của Nho giáo, nhằm bắt họ ngoan ngoãn phục tùng và tự giác thực hiện những quy phạm đạo đức ấy.(6)

Những khái niệm đạo đức cơ bản được dùng trong phạm vi gia đình được đem vận dụng cho các quan hệ xã hội ở trong nước; nhưng nội dung của chúng đã được mở rộng, được bổ sung những ý nghĩa mới với những sắc thái mới. Tuy nhiên, thực chất của những khái niệm ấy không thay đổi, vẫn thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa “sự” và “sử”, giữa bề trên với kẻ dưới. Điểm khác nhau lớn nhất là ở phạm vi và mục đích của những quan hệ này. Trong phạm vi nhà, khi trẻ nhỏ đã là con hiếu, em đễ thì khi lớn lên cũng trở thành người cha từ, người anh lành, người gia trưởng biết tề gia tốt. Trong phạm vi nước, những con người được giáo dục như vậy cũng dễ trở thành những người làm nên nghiệp lớn, hoặc có những cống hiến lớn trong công cuộc trị nước. Tác giả Quang Đạm cho rằng, “nhà là chỗ đứng vững chắc cần phải giữ vững trong mọi quan hệ giữa con người mình với đất nước và thiên hạ, đó là một điểm rất cơ bản của hệ tư tưởng Nho giáo”(7). Theo chúng tôi, ý kiến này đã xác định được rõ ràng chân lý của đạo Nho khi coi nhà là gốc của nước và thiên hạ. Hơn nữa, luận điểm “nước gốc ở nhà” của Nho giáo thể hiện tính giai cấp rõ ràng. Nho giáo không quan tâm tới mọi nhà, mọi gia đình trong nước, mà chủ yếu là nói đến nhà của những người thuộc giai cấp thống trị. Đó là những gia đình và gia tộc lớn, có thế lực, có thể quyết định vận mạng của đất nước, như tôn thất là gia tộc của vua, các cự thất, đại gia, thế gia, đại tộc là gia thất của các tầng lớp quan lại và những người giàu có, quyền quý. Những tổ chức ấy có quyền áp bức, bóc lột đối với những gia đình, gia tộc thuộc các giai tầng bị trị. Chỉ có những gia đình, gia tộc có thế lực đó mới thực sự là “gốc của nước”. Với quan niệm coi nhà là cái gốc, con người của Nho giáo luôn gắng hết sức mình để cùng với gia đình và gia tộc xây dựng cơ đồ thành những “cự thất” hay thế lực gia tộc mạnh mẽ. Tuỳ theo khả năng và thực lực, các thế lực này sẽ phát huy ảnh hưởng trong những phạm vi rộng, hẹp khác nhau; nhưng xu hướng chung là những gia đình, gia tộc có thế lực đều có tư tưởng bành trướng, muốn phát triển và đề cao gia đình, gia tộc mình trong xã hội. Xu hướng ấy tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa nhà với nhà, giữa gia tộc này với gia tộc khác nhằm khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Để đạt được mục đích ấy, có thể phải sử dụng mọi thủ đoạn và phương tiện, cho nên, cuộc đấu tranh này cũng tàn khốc và đẫm máu không kém gì cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nó chỉ diễn ra trong nội bộ giai cấp thống trị, nhưng lại có ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ sự phát triển của xã hội, có thể quyết định chiều hướng phát triển của xã hội. Những luận điểm của Nho giáo nói về nhà và vai trò của nhà chính là đề cập đến những gia đình, gia tộc có thế lực đó. Còn các gia đình, gia tộc của các giai tầng khác phải chịu biết bao xiềng xích áp bức, bóc lột thì không thể được coi là gốc nước.(7)

Như vậy, cách hiểu nhà là gia đình - một đơn vị tế bào cơ bản cấu thành thực thể xã hội có một ý nghĩa rất quan trọng về mặt nhận thức luận. Nó xác định rõ nội dung, phạm vi của nhà và phân biệt “nhà” với “nước”. Nhà được khuôn lại trong phạm vi những quan hệ huyết tộc, như cha mẹ với con cái, anh với em, vợ với chồng. Nhiều đơn vị huyết tộc như vậy liên hệ với nhau trên mọi phương diện, là điều kiện cơ bản để tạo thành một nước bao quát những phạm vi rộng lớn hơn với những mối quan hệ đa dạng và phức tạp hơn. Nhưng, với ý nghĩa là gia tộc thì sự phân biệt giữa “gia” và “quốc” không rõ ràng và đôi khi còn được coi là thống nhất với nhau. Về cơ cấu tổ chức của xã hội Trung Hoa cổ đại, có tài liệu cho thấy: Tất cả các nước trong thiên hạ đều thuộc quyền cai trị của thiên tử, trong đó, các nước lớn hoặc tương đối lớn (từ 50 dặm đến 100 dặm) do các vua chư hầu gồm các tước công, hầu, bá, tử, nam cai trị và được gọi là “quốc”. Ngoài ra, còn có các nước nhỏ hơn do các quan đại phu cai trị; bản thân các quan đại phu có tên gọi chung là “gia” nên các nước nhỏ đó cũng được gọi là “gia”. Vì vậy, nếu hiểu “gia” là “nhà”, là gia đình của mọi người nói chung, bao gồm cả dân thường, thì không hợp lý, bởi “gia” đã mang ý nghĩa của một gia tộc, một nước. Với tinh thần đó, có người đã dịch nghĩa câu nói của Khổng Tử: “Khâu giã văn hữu quốc, hữu gia giả, bất hoạn quả, nhi hoạn bất quân; bất hoạn bần, nhi hoạn bất an” là: “Khâu này nghe: Vua chư hầu hay quan đại phu (kẻ có nước, có nhà) chẳng lo ít dân mà chỉ lo không đồng đều, chẳng lo nghèo, mà chỉ lo không được an ninh”(8). Cách hiểu như vậy chúng tôi cho là hợp lý, thể hiện được cả nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng của chữ “gia” của Nho giáo.

Trong công cuộc xây dựng con người mới và xã hội mới hiện nay, việc nghiên cứu để kế thừa những yếu tố tích cực trong quan niệm của Nho giáo cũng như việc vạch ra những biểu hiện tồn tại chủ yếu của nó là rất quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 

Theo quan điểm của Đảng ta, gia đình được coi là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đảng ta cũng yêu cầu, các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ, nâng cao ý thức gia đình với mọi lớp người. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, sự tốt hay xấu của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng nhất định đến sự ổn định của xã hội. Trong xã hội mới, nền tảng của gia đình mới mà chúng ta xây dựng vẫn đòi hỏi vợ chồng phải chung thuỷ, cha mẹ phải nhân từ, con cái phải có đức hiếu kính, anh em phải có lòng yêu thương, nhường nhịn lẫn nhau. Song, chúng ta cũng cần nhận thấy và phê phán những khiếm khuyết của Nho giáo có ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu xây dựng gia đình mới hiện nay.

Thứ nhất, nhằm củng cố và xây dựng, phát triển gia đình theo đúng “lễ”, Nho giáo đã đặt ra một hệ thống tôn ti, trật tự, trên - dưới rõ ràng. Các quan hệ trong gia đình làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội.(8)

Hiện nay, phát triển và đề cao gia đình theo quan niệm của Nho giáo đã dẫn đến hiện tượng tình cảm gia đình quá nặng; sự tính toán cho danh lợi riêng của gia đình mình quá lớn. Quan niệm “nhà trước, nước sau” đã trở thành đạo lý khống chế tư duy và hành động của nhiều người trong xã hội. Khi một số người đặt lợi ích của bản thân và gia đình lên trên hết, bất chấp lợi ích chung của đất nước thì vô hình chung, đã tạo ra một thứ chủ nghĩa gia đình tệ hại. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chúng ta cần thiết phải xóa bỏ triệt để chủ nghĩa gia đình đang cản trở những bước tiến của xã hội hiện đại. Hơn nữa, việc đề cao gia đình, gia tộc mình đã dẫn đến sự ra đời và tồn tại dai dẳng của chế độ gia đình trị. Chế độ phong kiến thực chất là chế độ thống trị của những gia đình, gia tộc nào đó trong giai cấp phong kiến quý tộc. Việc lập gia, tề gia, hưng gia là để có thể dựa vào sức mạnh gia đình riêng của mình để thống trị cả nước và thiên hạ. Chế độ gia đình trị được thể hiện đặc biệt rõ ràng khi các triều đại Trung Hoa biến tên triều đại và tên gia tộc mình thành tên nước, như Đại Hán, Đại Đường, Đại Tống, v.v.. Trong tiếng Việt, những cách gọi, như nhà Lê, nhà Trần, nhà Nguyễn... đã diễn đạt chính xác chế độ gia đình trị. Chế độ gia đình trị đẻ ra sự độc quyền, độc tài và nhiều tệ nạn khác trong việc điều hành đất nước. Gia Long không phong vương cho người ngoại tộc cũng là để bảo vệ cho sự thống trị độc quyền tuyệt đối của gia tộc họ Nguyễn.

Ngày nay, chế độ phong kiến đã bị xóa bỏ, nhưng chế độ gia đình trị vẫn còn tồn tại dưới nhiều hình thức biến tướng, biến dạng khác nhau. Trong phạm vi một tổ chức, một cơ quan, nhất là ở địa phương và nông thôn vẫn còn nhiều kiểu biến dạng của chế độ gia đình trị. Một người có chức, có quyền đề bạt vài người trong gia đình, họ hàng vào những cương vị đáng kể, tạo thành bè cánh có thể lũng đoạn tổ chức, quyết định công việc chung theo hướng có lợi cho nhà mình trước hết. Hiện tượng đó dẫn đến sự vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, bóp nghẹt dân chủ, kéo bè kéo cánh, tham ô, móc ngoặc, cửa quyền, gây thiệt hại tài sản chung, cản trở và làm chậm bước tiến của công cuộc đổi mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không dung thứ bất kỳ hình thức gia đình trị nào, cương quyết đấu tranh trên mọi phương diện để quét sạch những tàn dư tệ hại của chủ nghĩa gia đình ra khỏi đời sống văn minh.

Thứ hai, việc đề cao yếu tố gia đình và tình cảm gia đình như của Nho giáo, cũng dẫn đến hậu quả là, tình trạng “nhà hóa” các cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã hội, các công việc chung, của công, các quan hệ đồng nghiệp đang trở nên phổ biến. Người ta đã mô hình hóa tập thể và quan hệ tập thể theo mô hình gia đình và quan hệ gia đình, coi thủ trưởng cơ quan như người gia trưởng. Điều đó không phù hợp với yêu cầu và lợi ích của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, nếu phạm vi “nhà hóa” càng rộng thì lại càng thu hẹp tầm mắt của con người, khiến họ quanh đi quẩn lại chỉ thấy tình cảm gia đình là thân thiết và hợp lý nhất. Chủ nghĩa Mác không phủ nhận gia đình và tình cảm gia đình, nhưng C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, cần phải xóa bỏ những hình thức gia đình lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển tiến bộ của lịch sử. Các ông đã chỉ ra cơ sở của gia đình tư sản là “dựa trên tư bản, trên lợi nhuận cá nhân”(9); hậu quả của hình thức gia đình tư sản là “gia đình dưới hình thức hoàn toàn phát triển của nó chỉ tồn tại đối với giai cấp tư sản mà thôi, nhưng nó lại kèm theo sự bắt buộc phải thủ tiêu mọi gia đình đối với người vô sản và kèm theo nạn mãi dâm công khai”(10). Theo các ông, “gia đình tư sản dĩ nhiên là sẽ tiêu tan cùng với cái kèm theo nó, và cả hai cái đó đều mất đi cùng với tư bản”(11). Khi đó, hình thức tổ chức gia đình mới sẽ được thiết lập cùng với sự ra đời của chế độ mới mà trong đó, chính vấn đề lợi ích là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển xã hội. Vì vậy, cần phải kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng, “nếu như lợi ích, hiểu một cách đúng đắn, là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì điều quan trọng là phải ra sức làm cho lợi ích riêng tư của con người phù hợp với lợi ích của loài người”(12). Quan niệm như vậy hoàn toàn khác với quan niệm của Nho giáo khi không thừa nhận và không bàn đến vấn đề “lợi”.

Thứ ba, một ảnh hưởng rất rõ nữa hiện nay của Nho giáo là tác phong gia trưởng trong các tổ chức và cơ quan nhà nước. Ở nhiều nơi, thủ trưởng được coi như người gia trưởng và cơ quan được coi như là một gia đình. Thủ trưởng có thể ban ơn hay quở trách tùy theo sự yêu mến hay ghét bỏ của mình. Tác phong gia trưởng ấy bắt nguồn từ lối sống và lối làm việc gia đình chủ nghĩa đã tồn tại lâu dài trong nhiều thế kỷ. Hậu quả của nó là sự trì trệ, bảo thủ, quan liêu trong tư duy và hành động. Vì vậy, đấu tranh để xóa bỏ tác phong gia trưởng là một yêu cầu quan trọng không thể thiếu, nhằm xây dựng một nếp sống và làm việc lành mạnh, dân chủ, bình đẳng.(9)

Có thể nói rằng, cùng với việc đấu tranh loại bỏ được những tư tưởng bảo thủ, tiêu cực và mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý tích cực của Nho giáo về gia đình để xây dựng gia đình mới, làm tiền đề cho việc xây dựng xã hội mới cũng là điều nên làm. Đảng ta yêu cầu, phải đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình trong việc giữ gìn nền nếp gia phong, gia huấn tốt đẹp của gia đình, dòng tộc. Một gia đình mới trong chế độ xã hội chủ nghĩa không đoạn tuyệt hoàn toàn với gia đình cũ, mà chính là nơi kế thừa tinh hoa của gia đình cũ kết hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội mới. Việc xây dựng thành công gia đình mới hiện nay sẽ góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cho sự ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và tăng cường hội nhập với thế giới. q


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

(**) Thạc sĩ, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc.

(1) Quang Đạm. Nho giáo xưa và nay. Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1994, tr.205.

(2) Ngữ văn Hán Nôm, t.1, Tứ thư, bản dịch Đại học. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.58

(3) Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm Đại Viện, Lưu  Phong (chú dịch). Tứ thư (Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.662.

(4) Phan Bội Châu. Khổng học đăng, t.9. Nxb Thuận hóa,1990, tr.335.

(5) Phan Bội Châu. Sđd., tr.337.

(6) Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm Đại Viện, Lưu  Phong (chú dịch). Sđd., tr.661.

(7) Quang Đạm. Nho giáo xưa và nay. Sđd., tr.166.

(8) Ngữ văn Hán nôm, t.1. Sđd., tr.510.

(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập (gồm sáu tập), t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.563.

(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.563.

(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.563.

(12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.563.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: Tầng 11, 12 nhà A, Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007