Tìm kiếm

MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NHÌN TỪ BIỆN CHỨNG CỦA SỰ TIẾN HOÁ LỊCH SỬ, MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

15/08/2024

TRIẾT HỌC, SỐ 7 (266), THÁNG 7-2013

PHẠM VĂN ĐỨC  (*)

Trong bài viết này, tác giả đã luận giải để làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, khẳng định phát triển kinh tế thị trường là phương thức tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, xác định và phân tích một số đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Các đặc trưng đó, theo tác giả, vừa phản ánh tính phổ biến, vừa thể hiện những nét đặc thù trong mô hình phát triển mà Việt Nam lựa chọn.

1. Theo quan điểm của C.Mác, sự tiến hoá của lịch sử là quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo quy luật tất yếu và khách quan. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội cao là sự kế thừa và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội thấp. Như vậy, sự phát triển của xã hội loài người tiến triển từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Cho đến nay, loài người đã chứng kiến sự ra đời và thay thế lẫn nhau của bốn hình thái kinh tế - xã hội. Đó là cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội với tư cách một hình thái kế thừa những tinh tuý nhất của chủ nghĩa tư bản và phát triển cao hơn xã hội tư bản chủ nghĩa.

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã từng chứng kiến những hình thái kinh tế - xã hội không có sản xuất hàng hoá, không có kinh tế thị trường. Sự phát triển của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường cũng là một quá trình tuân theo quy luật từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn đi liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.(*)Theo lôgíc của lịch sử như vậy, kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại, nó đã đạt đến trình độ phát triển cao và hoàn thiện trong chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường đã làm cho hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa thay thế hình thái kinh tế - xã hội phong kiến. Nếu xét ngay trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa thì kinh tế thị trường cũng có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Các hình thức kinh tế thị trường cũng hết sức đa dạng, như kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, v.v..

Xét theo phương diện biện chứng của sự phát triển lịch sử thì kinh tế thị trường và các hình thái kinh tế - xã hội có sự song hành, thuận chiều và gặp nhau tại chủ nghĩa tư bản. Cả chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường đều là sản phẩm khách quan của lịch sử, đồng thời là thành quả của văn minh nhân loại. C.Mác đã từng nói rằng, nhân loại hiện đang đau khổ vì chủ nghĩa tư bản, nhưng nhân loại sẽ đau khổ hơn nếu không có chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường thúc đẩy chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng khiến cho nó bộc lộ những mâu thuẫn phải giải quyết để tiếp tục phát triển. Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản luôn phải điều chỉnh để thích nghi, phù hợp với những điều kiện lịch sử mới.

Về mặt lý thuyết, theo quan điểm của C.Mác, chủ nghĩa xã hội là một xã hội kế tiếp chủ nghĩa tư bản và phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là xã hội đã chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Về mặt cơ sở vật chất, cơ sở kinh tế thì giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không có gì khác nhau. Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản chỉ được thể hiện ở kiến trúc thượng tầng. Kinh tế thị trường đã đóng góp tích cực cho việc xây dựng và phát triển cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản và do đó, cũng góp phần chuẩn bị cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Với lôgic như vậy, có thể khẳng định rằng, nếu không có kinh tế thị trường thì cũng không có chủ nghĩa tư bản và do đó, cũng không thể có chủ nghĩa xã hội, một xã hội ra đời sau và phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản. Vấn đề đặt ra là đến chủ nghĩa xã hội thì còn kinh tế thị trường hay không?

Về mặt lý thuyết, xoay quanh vấn đề này có hai quan điểm khác nhau. Theo quan điểm của Ph.Ăngghen, trong chủ nghĩa xã hội, không còn sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên không còn sản xuất hàng hoá và do đó, cũng không có kinh tế thị trường nữa. Trái với quan điểm của Ph.Ăngghen, Đuyrinh lại cho rằng, trong chủ nghĩa xã hội vẫn còn sản xuất hàng hoá. Cho đến nay, chưa có chủ nghĩa xã hội được ra đời từ một nước tư bản phát triển cao nên rất khó có cơ sở thực tiễn để khẳng định một cách chắc chắn và thuyết phục là trong chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nền sản xuất hàng hoá hay không?

Trên thực tế, ở các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân mà đại diện là Đảng tiền phong của nó chưa giành được chính quyền. Giai cấp công nhân mới chỉ giành được chính quyền và nắm giữ vai trò lãnh đạo xã hội ở các nước tiền tư bản chủ nghĩa hoặc cao hơn một chút là ở nước tư bản trung bình. Sau khi giành được chính quyền, các nước này đã không sử dụng mà bỏ qua ngay kinh tế thị trường với tư cách là thành quả văn minh của nhân loại, một trong những biện pháp hữu hiệu để phát triển lực lượng sản xuất. Thành thử, những ý tưởng tốt đẹp về một xã hội tương lai cũng vẫn chỉ là những lý tưởng mà không được hiện thực hóa trong thực tế do cơ sở kinh tế quá yếu kém. Những chính sách xã hội hết sức tốt đẹp và là mơ ước của loài người không đi vào thực tiễn cuộc sống, Thêm vào đó, cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt giữa 2 phe, phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa cộng với quan niệm sai lầm coi chủ nghĩa xã hội là một xã hội hoàn toàn khác với chủ nghĩa tư bản, mọi cái mà chủ nghĩa tư bản sử dụng hoặc là của chủ nghĩa tư bản đều không thể sử dụng trong chủ nghĩa xã hội được,... đã khiến những ý tưởng muốn sử dụng kinh tế thị trường không thể tồn tại trong các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong nhiều chục năm.

Ngay cả V.I.Lênin, người đã sớm nhận ra những khuyết tật của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhận ra vai trò quan trọng của kinh tế thị trường cũng có phần chủ quan, nóng vội khi đưa ra dự đoán rằng có thể phát triển được nước Nga sau vài năm mà không cần dùng kinh tế thị trường. Điều đáng nói là, sau nhiều chục năm những sai lầm của V.I.Lênin trong Chính sách cộng sản thời chiến, những thay đổi của V.I.Lênin trong Chính sách kinh tế mới vẫn không được các nước xã hội chủ nghĩa nhận ra. Chỉ đến khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu thì kinh tế thị trường mới có chỗ đứng và khẳng định vai trò của nó ở một số nước đi theo chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam và Trung Quốc.

Thực tiễn phát triển và lý luận kinh điển của C.Mác đều khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, đối với bất cứ quốc gia nào chưa trải qua kinh tế thị trường, để giải quyết được vấn đề phát triển, trước hết phải phát triển kinh tế thị trường theo đúng nghĩa; phải tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng của thị trường đối với sự phát triển nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chỉ trên cơ sở đó, xét theo mục tiêu chiến lược, mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu, có điều kiện vật chất và tinh thần để đáp ứng các mục tiêu xã hội và nhân văn.

Từ những lập luận mang tính lôgíc cũng như thực tiễn lịch sử diễn ra trong những năm qua, có thể khẳng định rằng, kinh tế thị trường được xác định là một nấc thang tất yếu, do đó, nó có tính phổ biến. Phát triển kinh tế thị trường là phương thức tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là đối với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, như Việt Nam và Trung Quốc. Vấn đề đặt ra hiện nay ở Việt Nam không phải là có phát triển kinh tế thị trường hay không, mà là nền kinh tế thị trường này mang những đặc điểm gì?

2. Khi nói đến kinh tế thị trường, người ta thường nói đến các yếu tố cơ bản của nó, bao gồm: 1/ Sự tồn tại của các chủ sở hữu độc lập; 2/ Các thị trường tồn tại một cách đồng bộ với các thể chế tương ứng; 3/ Hệ thống giá cả do quan hệ cung cầu của thị trường quyết định; 4/ Nguyên tắc vận hành cơ bản của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do, và 5/ Nhà nước có vai trò quan trọng.

Tuy nhiên, con đường phát triển kinh tế thị trường hết sức đa dạng và không theo một mô hình thống nhất. Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển kinh tế thị trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử và hoàn cảnh phát triển cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc. Một quốc gia đi sau không thể vận dụng một cách cứng nhắc, giáo điều các nguyên lý lý luận về kinh tế thị trường; cũng không thể áp dụng rập khuôn các mô hình kinh tế thị trường có sẵn ở đâu đó, dù mô hình ấy là có hiệu quả ở một nước nào đó, để giải quyết các vấn đề phát triển mang tính chất đặc thù của dân tộc mình.

Lịch sử tồn tại và phát triển của các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới đã khẳng định rằng, các mô hình kinh tế thị trường luôn có sự điều chỉnh theo hướng: 1/ Ngày càng nhấn mạnh các mục tiêu xã hội – con người; 2/ Thừa nhận vai trò định hướng, tổ chức và điều tiết phát triển của nhà nước.

Cho đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX, kinh tế thị trường chỉ tồn tại trong chủ nghĩa tư bản với 2 hình thức chủ yếu là mô hình kinh tế thị trường tự do mô hình kinh tế thị trường - xã hội. Hiện nay, ngoài 2 hình thức chủ yếu đó còn có thêm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (ở Việt Nam) hay kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (ở Trung Quốc).

Mặc dù kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ mới ra đời cách đây gần 1/4 thế kỷ, nhưng sự xuất hiện của mô hình này đã chứng minh sức sống của nó như một tất yếu khách quan của thời đại; đồng thời, khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị trường với tư cách một giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế.

Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được xác lập chưa lâu và vẫn đang trong quá trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Do vậy, hiện chưa có một cơ sở thực tiễn vững chắc cho một hệ thống lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nội dung hoàn chỉnh và lôgic chặt chẽ.

Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng định tại Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học lớn tại các kỳ đại hội Đảng và tiếp tục được phát triển qua Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới”([1]).

Trong các văn kiện của Đảng, các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được trình bày tương đối cụ thể. Nói một cách khái quát, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở chỗ, “đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”(2). Điều đó được thể hiện một cách cụ thể trên một số điểm sau:

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tiễn của thế giới và Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh rằng, không có một nền kinh tế nào khác ngoài kinh tế thị trường có thể đảm nhiệm vai trò là cơ sở kinh tế để phát triển xã hội nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng. Điều đó cũng là sự khẳng định, bằng thực tiễn Việt Nam, nguyên lý kinh điển của C.Mác về vai trò của kinh tế thị trường trong tiến trình phát triển của loài người như đã trình bày ở phần trên.

Thứ hai, tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế - xã hội quy định phát triển kinh tế thị trường ở nước ta nhằm xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp”(3). Mục tiêu dân giàu, nước mạnh chỉ có thể đạt được khi có được một lực lượng sản xuất phát triển. Phát triển kinh tế thị trường là cơ sở và điều kiện quyết định để phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tính định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện không chỉ ở mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất để giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế, mà còn ở mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, trước hết là thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.(2)

Tăng trưởng kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội là hai nội dung của sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững ở nước ta. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm tăng trưởng kinh tế, đồng thời bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện sự thống nhất và kết hợp một cách hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ở tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục, vì mục tiêu phát triển con người là những nội dung cấu thành của phát triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ ba, một trong những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường, như đã trình bày ở trên, là sự tồn tại của các chủ sở hữu độc lập với nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu. Tương tự như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp, bao gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại trong một thể thống nhất. Chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên hai hình thức cơ bản là sở hữu công cộng (công hữu) và sở hữu tư nhân (tư hữu). Còn sở hữu hỗn hợp được hình thành trên cơ sở đan xen, hỗn hợp giữa các hình thức sở hữu và là kết quả của sự hợp tác, liên doanh giữa các chủ sở hữu khác nhau là Nhà nước, tập thể (nhóm) và tư nhân. Công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, các hình thức sở hữu khác cùng phát triển mạnh mẽ không hạn chế và đan xen, hỗn hợp với nhau theo luật định cần được xem là chế độ kinh tế cơ bản của giai đoạn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trước đây, theo quan niệm truyền thống, các hình thức sở hữu là đơn nhất: Nhà nước, tập thể hoặc tư nhân. Qua hơn 25 năm đổi mới, kinh tế hỗn hợp đang được hình thành và từng bước phát triển mạnh; chế độ cổ phần đang dần trở thành hình thức tổ chức chủ yếu của kinh tế công hữu. Vì thế, công hữu không chỉ bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể đơn nhất, mà còn bao gồm cả phần sở hữu của nhà nước và tập thể trong kinh tế hỗn hợp. Cũng như vậy, tư hữu không chỉ bao gồm sở hữu tư nhân đơn nhất, mà còn bao gồm cả phần sở hữu của tư nhân trong kinh tế hỗn hợp. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hình thức đơn nhất của công hữu có xu hướng giảm nhưng ý nghĩa nền tảng của công hữu ngày càng được củng cố vững chắc và được tăng cường ở những lĩnh vực then chốt, thể hiện ở:

- Vốn của kinh tế công hữu (bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và phần công hữu trong kinh tế hỗn hợp) vẫn đóng vai trò quan trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội.

- Kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế.

Một yêu cầu khách quan của thị trường và kinh tế thị trường là phải xác nhận và xác định quyền sở hữu dưới dạng tiền tệ những đóng góp tài sản, tiền vốn, trí tuệ, v.v. vào kinh doanh nhằm lượng hoá quyền sở hữu của từng chủ sở hữu. Không có quyền sở hữu chung chung, vô chủ, cũng không có quyền sở hữu như nhau cho tất cả mọi người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, sự bình đẳng của các thành phần kinh tế.

Có thể nói, làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và không hiến định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được nhiều ý kiến đánh giá là điểm mới, tiến bộ của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 so với Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Điều 54 đã quy định: “1/ Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. 2/ Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.

Trong khi đó, Hiến pháp năm 1992, Điều 19 quy định, kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nếu ở Hiến pháp năm 1992, thành phần kinh tế nhà nước được xác định giữ vai trò chủ đạo, thì trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã không đề cập đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nữa. Cụ thể, mục 2 Điều 54 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 nêu rõ: Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Đây là điểm mới so với Hiến pháp năm 1992, khẳng định các thành phần kinh tế đều bình đẳng như nhau và đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, không định trước thành phần kinh tế nào là chủ đạo và là nền tảng của kinh tế quốc dân.

Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, một loạt các tập đoàn kinh tế nhà nước được hưởng nhiều điều kiện thuận lợi so với các thành phần kinh tế khác nhưng lại bị suy sụp, trì trệ, thậm chí đứng trước nguy cơ phá sản do tình trạng tham nhũng, lãng phí, quản trị doanh nghiệp kém. Có ý kiến đã so sánh kinh tế nhà nước như người khổng lồ chỉ biết sử dụng bầu sữa ngân sách nhà nước nhưng lại không có hiệu quả. Trong khi đó, dù phải đối mặt và vượt qua không ít khó khăn lớn, song nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đã tự thân vận động để trụ được trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và toàn cầu.

Do đó, có thể nói, việc tiếp tục khẳng định rõ hơn nền kinh tế nước ta có nhiều hình thức sở hữu, không xác định một cách duy ý chí thành phần kinh tế nào là chủ đạo, nền tảng trong nền kinh tế quốc dân, theo chúng tôi, là đúng đắn. Bởi lẽ, điều này là sự thể hiện trước hết tính chất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Dù thành phần kinh tế nào thì cũng nằm dưới sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, cùng phục vụ mục đích phát triển kinh tế của đất nước nên các thành phần kinh tế cần phải được bình đẳng với nhau. Kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác với kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở mục tiêu và định hướng của sự phát triển. Nếu xác định một thành phần kinh tế nào đó trong nền kinh tế nhiều thành phần giữ vai trò chủ đạo, tức trụ cột, thì sẽ không thể có được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nói cách khác, khi đó quy định về sự bình đẳng chỉ là hình thức. Thực tế cho thấy, trong những năm qua kinh tế nhà nước dù nhận được nhiều ưu đãi, nhưng hoạt động kém hiệu quả. Trong khi đó, thành phần kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác đã và đang phát triển mạnh, có đóng góp lớn cho nền kinh tế lại chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc quy định các thành phần kinh tế bình đẳng như nhau trong cùng một khuôn khổ pháp lý sẽ tạo những chuyển biến tốt hơn trong nền kinh tế của đất nước, tạo ra nhiều của cải vật chất, việc làm, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách. Mục tiêu của chúng ta hiện nay, xét về phương diện kinh tế, là giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững. Do đó, cần thiết phải tạo môi trường bình đẳng cho các thành phần kinh tế bộc lộ thực chất năng lực phát triển của mình, qua đó đóng góp nhiều hơn cho xã hội.

Khi đề cập đến vấn đề kinh tế nhà nước có giữ vai trò chủ đạo hay không, TS. Lê Đăng Doanh cho rằng, chỉ có Việt Nam mới nói đến kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo(4). Ông cho rằng, các doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh bình đẳng; rằng, những đứa con được nuông chiều dễ trở thành những đứa con hư, cây nào sống trong nhà kính thì không thể chịu được gió bão. Vì vậy, hãy để nó sống trong môi trường bình thường, chịu gió bão cạnh tranh, phải phấn đấu lên thì khi ấy doanh nghiệp nhà nước mới có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cần có một lộ trình cắt giảm, không thể ngay lập tức cắt giảm hết. Không ai cai sữa cho một đứa trẻ qua đêm, phải làm dần dần để hướng đến môi trường cạnh tranh hơn.

Tất nhiên, cũng không phải không có ý kiến cho rằng, nếu không khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì sẽ không thể bảo đảm phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo chúng tôi, việc thực hiện và bảo đảm phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa không phụ thuộc vào quy định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, mà là ở tính hiệu quả của nó. Cũng giống như trước đây, trong thời kỳ phát triển kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta chỉ có 2 hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể nhưng vẫn không có chủ nghĩa xã hội và mục tiêu chủ nghĩa xã hội lại còn xa hơn nhiều so với hiện nay. Thành thử, nếu được gắn mác “giữ vai trò chủ đạo” nhưng kinh tế nhà nước luôn trong tình trạng ốm yếu, trì trệ, không phát triển bền vững..., tức là hoạt động không có hiệu quả thì cũng không thể đảm bảo cho sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nếu không thay đổi tư duy thì cái tư duy coi “kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo” sẽ không khác quan điểm trước đây coi “quan hệ sản xuất có thể đi trước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển” và rất có thể sai lầm chủ quan duy ý chí một lần nữa được lặp lại.(4)

Vấn đề là cần phát huy vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.

Thứ năm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với bảo đảm công bằng.

Công bằng xã hội là phạm trù kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp lý mang tính lịch sử, phản ánh quan hệ giữa các cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác trong việc bảo đảm các điều kiện sống, các cơ hội phát triển; trong việc thực hiện nghĩa vụ, hưởng quyền lợi... tương ứng với một trình độ phát triển xã hội nhất định.

Trong các nhân tố tác động đến công bằng xã hội thì sự phát triển kinh tế có vai trò đặc biệt. Là cơ sở của xã hội, kinh tế quy định công bằng xã hội theo nghĩa, xét đến cùng, một trình độ phát triển kinh tế nhất định quy định một trình độ nhất định của công bằng xã hội. Đương nhiên, trên thực tế, không phải một xã hội giàu có sẽ loại bỏ được bất công, bóc lột; nhưng một xã hội nghèo khó, chậm phát triển thì trước sau cũng nảy sinh bất công, bóc lột. Theo đó, rõ ràng sự phát triển kinh tế, tổng sản phẩm xã hội cao là điều kiện cần để thực hiện công bằng xã hội. Đến lượt nó, công bằng xã hội là điều kiện đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ, việc thực hiện công bằng xã hội sẽ gắn lợi ích của người lao động với hệ thống sản xuất xã hội, qua đó khơi dậy tính tích cực của họ trong lao động, sản xuất.

Chuyển sang kinh tế thị trường là thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, sự cùng tồn tại của sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác tất yếu nảy sinh mâu thuẫn. Nếu đối xử một cách công bằng với hình thức sở hữu tư nhân cũng như sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, lành mạnh hoá những quan hệ kinh tế, giải quyết thông thoáng các thủ tục hành chính, không để nảy sinh độc quyền, đặc lợi; các thành phần kinh tế đều bình đẳng... thì sự tương tác, hỗ trợ giữa các thành phần kinh tế sẽ tạo nên động lực của sự phát triển kinh tế.

Vấn đề đặt ra là tăng trưởng kinh tế phải hướng đến mục tiêu công bằng xã hội. Nếu không như vậy thì không chỉ định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển đất nước không thực hiện được, mà bản thân sự tăng trưởng kinh tế cũng sẽ không bền vững. Đồng thời, công bằng xã hội phải tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, như Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ, đòi hỏi phải “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá; y tế; giáo dục..., giải quyết tất cả các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội”.

Thứ sáu, thực hiện phân phối thu nhập theo hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động là chính, ngoài ra còn có các hình thức phân phối theo vốn, tài sản, trí tuệ và phúc lợi xã hội.

Lao động là nguồn gốc chính tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, tạo ra sự giàu có của quốc gia. Vì thế, để thực hiện công bằng, một mặt, phải lấy phân phối theo hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm hình thức phân phối chính. Người lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao phải có thu nhập cao hơn. Mặt khác, phải tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để mọi người đều có thể làm giàu chính đáng bằng lao động của chính mình. Vì vậy, mở rộng cơ hội phát triển và nâng cao năng lực lựa chọn cơ hội cho mọi người dân để họ từng bước sống khá giả, sau đó, giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần là mục tiêu, là đặc trưng thuộc về bản chất của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.

Thu nhập theo vốn, tài sản và trí tuệ đóng góp vào sản xuất, kinh doanh là những hình thức phân phối đã được luật pháp thừa nhận. Chỉ trên cơ sở đó mới khuyến khích nhiều người làm giàu chính đáng. Tăng số người giàu, giảm số người nghèo, không còn người đói, giảm dần độ chênh lệch giàu nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung trọng yếu của các chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ bảy, vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là nhà nước và thị trường. Do vậy, bàn về tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường, mấu chốt là phải xác định rõ thực trạng của mối quan hệ này. Ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, các nhà kinh tế đã nói đến sự cần thiết phải kết hợp giữa bàn tay vô hình của thị trường và bàn tay hữu hình của xã hội dân sự. Thực tế cho thấy, dù theo mô hình kinh tế thị trường tự do hay mô hình thị trường xã hội thì nhà nước cũng luôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Vấn đề chính là nhà nước can thiệp như thế nào cho có hiệu quả. Việc buông lỏng quản lý của nhà nước sẽ làm cho mặt trái của thị trường tác động tiêu cực đến đời sống xã hội; ngược lại, sự can thiệp quá sâu của nhà nước sẽ làm cho kinh tế bị trì trệ, không phát triển. Sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường đến mức nào thì hợp lý là vấn đề khoa học và nghệ thuật quản lý.

Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của Nhà nước hết sức to lớn. Nếu không làm rõ được trong cơ chế vận hành của nền kinh tế, Nhà nước làm gì, thị trường làm gì và bằng cách nào thì không thể có một nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả.

Khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới, Nhà nước ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh và khả năng tự đổi mới để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự khác biệt đó là điều kiện, tiền đề cho sự khác biệt về chất của mô hình kinh tế thị trường mà nước ta hướng tới so với các mô hình kinh tế thị trường khác. Để làm tròn sứ mệnh mà lịch sử và dân tộc Việt Nam giao phó, Đảng và Nhà nước phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý đất nước và xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hoá.

Thực tế cho thấy, Việt Nam hiện là nước đang phát triển. Các mục tiêu chiến lược đặt ra đòi hỏi phải thực hiện cùng lúc, như bảo đảm tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội cũng như bảo vệ môi trường sinh thái... không phải bao giờ cũng đi cùng chiều. Tuy nhiên, những mục tiêu đó không thể không được thực hiện và trong bối cảnh như vậy, vai trò của Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Rõ ràng, phải có sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước vào kinh tế để bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên diện rộng, trên cơ sở môi trường tự nhiên và môi trường xã hội được bảo vệ và phát triển. Đặc biệt, Nhà nước can thiệp vào quan hệ phân phối bảo đảm phân bổ nguồn lực, phân phối lần đầu và phân phối lại theo hướng gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.

Trên đây là một số đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các đặc trưng này vừa phản ánh tính phổ biến, vừa thể hiện những nét đặc thù trong mô hình phát triển mà Việt Nam lựa chọn. 


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Tổng biên tập Tạp chí Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

([1]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.34.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.34.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.70.

(4) Thực ra, trong văn kiện của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn ghi vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhưng một số chuyên gia kinh tế của Trung Quốc ủng hộ quan điểm này cũng cho rằng không biết quan điểm này còn tồn tại được bao lâu trong văn kiện của Đảng Cộng sản Trung Quốc nữa.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: Tầng 11, 12 nhà A, Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007