Tìm kiếm

PHÂN TÂM HỌC VÀ PHÂN TÂM HỌC SAU FREUD SỰ PHÊ PHÁN CỦA ALFRED ADLER

15/01/2024

Tạp chí Triết học, số 4, năm 2013

NGUYỄN THỊ THANH THỦY (*)

Trong triết học phương Tây hiện đại hiện đang tồn tại khá nhiều khuynh hướng, song có một khuynh hướng, vốn bắt đầu từ những năm 30 40 của thế kỷ XIX, vẫn tiếp tục chiếm một vị trí đáng kể đó là khuynh hướng nhân bản phi lý tính do Schopenhauer khởi xướng. Bên cạnh đó, có những tư trào triết học ban đầu chưa được định hình, nhưng về sau lại được dung nạp vào một khuynh hướng nhất định. Đó là trường hợp của phân tâm học do Sigmund Freud sáng lập. Trong bài viết này, tác giả xem xét phân tâm học Freud và những người kế tục ông trong thế kỷ XX từ góc độ một học thuyết nhân bản phi lý tính như thế. Nói nhân bản, bởi rõ ràng là nó bàn về con người và hoạt động của con người; nói phi lý tính, bởi nó khắc họa khía cạnh phi lý tính, tức những vấn đề bên ngoài và không chịu sự kiểm soát của lý tính.

1. SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA PHÂN TÂM HỌC

Phân tâm học do Sigmund Freud (1856 – 1939), bác sỹ người Áo gốc Do Thái, sinh tại Freiburg, Moravia, đế chế Áo - Hung (nay thuộc về Cộng hòa Séc) sáng lập. Năm 13 tuổi, ông theo gia đình đến Vienna sinh sống. Năm 1873, ông học tại khoa Y của Đại học Vienna, 8 năm sau mới tốt nghiệp. Những công trình đầu tiên của Freud bàn về sinh lý học, giải phẫu học não bộ. Từ những năm 80 của thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng của trường phái Pháp (Charcot, Bernheim) về thôi miên, Freud tìm hiểu chứng rối loạn thần kinh chức năng (tâm thần). Những năm 90 của thế kỷ XIX, Freud tập trung xây dựng phân tâm học – phương pháp dùng trị liệu tâm lý để chữa bệnh tâm thần. Phương pháp này căn cứ trên kỹ thuật liên tưởng tự do, phân tích những hành vi lầm lẫn và những giấc mơ như phương thức thâm nhập vào cõi vô thức, nghĩa là khu vực không chịu sự kiểm soát của ý thức. Vào năm 1900, Freud đưa ra học thuyết về cơ cấu bộ máy tâm lý như một hệ thống năng lượng mà cơ sở phát sinh của nó là xung đột giữa ý thức và những ham muốn vô thức. Vào năm 1923, Freud công bố công trình “Tự ngã và bản ngã”, đồng thời từng bước vận dụng Phân tâm học vào tâm lý xã hội, lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.(*)

Trước khi tìm hiểu những vấn đề cơ bản của phân tâm học Freud, cần lưu ý một số khía cạnh quan trọng, giúp người đọc đánh giá đúng mức vị trí của phân tâm học trong tư tưởng phương Tây hiện đại.

1) Freud sáng lập Phân tâm học vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, khi những quan niệm truyền thống về tâm lý không còn phù hợp nữa. Tâm lý học trước Freud cố gắng xác định thế nào là một con người bình thường, khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tâm lý, từ việc tìm hiểu hiện tượng của ý thức. Đi xa hơn những “tố chất tự nhiên”, Freud phân tích tính chất và nguyên nhân xuất hiện chứng rối loạn thần kinh chức năng, đẩy nó đến lĩnh vực tâm lý người và từng bước khám phá những điều sâu kín nhất mà tâm lý học trước đó bỏ qua, hoặc nghiên cứu chưa đến nơi đến chốn.

2) “Khám phá vô thức” – đó là sự đánh giá đã được thừa nhận phổ biến, dù từ các thái độ khen chê khác nhau. Tìm hiểu “sự nổi loạn của vô thức”, chủ trương giáo dục người bệnh bằng liệu pháp tâm lý, bằng kỹ thuật liên tưởng tự do, theo dõi thường xuyên những thay đổi tâm lý của người bệnh, xác định những nguyên nhân của bùng nổ xúc cảm, những ẩn ức... càng làm nổi bật vai trò người thầy thuốc – nhà giáo dục trong điều kiện phức tạp của xã hội, khi tâm lý người chịu quá nhiều tổn thương từ bên ngoài.

3) Freud không gọi mình là nhà triết học, song Phân tâm học do ông sáng lập vượt ra khỏi khuôn khổ của một học thuyết tâm lý, mang ý nghĩa triết học rõ ràng vì, thứ nhất, sự khái quát hóa triết học những ý tưởng cơ bản trong việc xác lập cơ chế tâm lý của cá nhân; thứ hai, tính khuynh hướng lý luận, gắn với hành trình tư tuởng của Freud.

Như vậy, từ năm 1900, trên diễn đàn triết học phương Tây đã xuất hiện một trường phái triết học – tâm lý theo khuynh hướng phi duy lý – nhân bản, có tên gọi là chủ nghĩa Freud (Freudism), hay đơn giản là Phân tâm học. Thế hệ sau Freud càng làm cho Phân tâm học mang diện mạo triết học thực sự, đồng thời khơi gợi nhiều vấn đề liên quan đến sáng tạo văn hóa. Đây thực sự là một bước đột phá táo bạo trong triết học tâm lý, cho dù không phải những luận điểm nào của chủ nghĩa Freud cũng đều được các nhà nghiên cứu và thực tiễn thừa nhận.  

Chủ nghĩa Freud, ngay từ buổi đầu, đã không phải là một trường phái thống nhất. Ngay giữa những học trò thân tín nhất của Freud, vào năm 1910, đã diễn ra cuộc tranh luận xem cái gì đóng vai trò năng lượng tâm lý cơ bản. Nếu ở Freud năng lượng ấy là năng lượng tâm lý – tính dục, thì ở A.Adler (tâm lý học cá thể), vai trò này thuộc về mặc cảm giá trị chưa hoàn thiện và ước muốn tự hoàn thiện. Với C.Gung (tâm lý học phân tích), vô thức tập thể và những nguyên mẫu (archetypes/archétype) mới là cơ sở của sáng tạo, nhất là sáng tạo văn hóa, nghệ thuật. O.Rank thì cho rằng, toàn bộ hoạt động của con người luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải vượt qua “cú sốc sinh nở ban đầu”.

Mặc dù các nhà phân tâm học sau Freud xem xét lại và bác bỏ một số luận điểm của người sáng lập (về quy tắc, hay tiêu chuẩn nghiên cứu tâm lý, giải thích tính chất của các quá trình tâm lý, về cơ chế tâm lý,...), song những nguyên lý cơ bản vẫn giữ nguyên: năng lượng vô thức, những khía cạnh phi duy lý của đời sống con người, tính chất xung đột và sự phân thân của thế giới nội tâm, tính dồn nén, tính bị ức chế, bị đàn áp và ý chí phản kháng, vấn đề suy đồi văn hóa,...

Chủ nghĩa Freud trở thành một trào lưu khá phổ biến từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, gắn với những biểu hiện khủng hoảng của văn hóa, xã hội. Các nhánh khác nhau của chủ nghĩa Freud đã bổ sung cơ sở triết học và phương pháp luận cho học thuyết của chủ nghĩa Freud mà chính Freud còn thiếu. Những bổ sung này khéo kết hợp với các tư tưởng chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học tự nhiên.

Ở Mỹ, xu hướng sinh học hóa phân tâm học kết hợp với chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa hành vi (behaviorism). Bên cạnh đó còn có xu hướng làm gần chủ nghĩa Freud với Điều khiển học (Cybernetics). Chủ nghĩa Freud - xã hội cũng có tiếng nói trong giới học thuật; nó xem xét các hiện tượng chính trị, văn hóa, xã hội như kết quả của sự thăng hóa (sublimation) năng lượng tâm lý tình dục, sự biến đổi các quá trình vô thức dưới tác động của đời sống văn hóa, xã hội. Vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Freud - mới cố gắng biến phân tâm học thành một học thuyết thuần túy xã hội học và văn hóa học, xa rời dần quan điểm vô thức và các yếu tố sinh học thời Freud. Từ cuối những năm 40, tức sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các vấn đề và các kết quả nghiên cứu của phân tâm học đã được sử dụng rộng rãi. Phân tâm học xã hội liên kết với chủ nghĩa hiện sinh và cùng xác định hình ảnh con người trong một thế giới phức tạp, đứng ở “tình thế tranh chấp” giữa tồn tại và hư vô, hòa bình và chiến tranh, hưng thịnh và đổ vỡ. Viện nghiên cứu xã hội tại Frankfurt (trường phái Frankfurt) chịu ảnh hưởng đáng kể của phân tâm học. Một số đại diện thiên tả của nó còn dung hòa phân tâm học với chủ nghĩa Mác nhằm tạo dựng học thuyết chiết trung theo kiểu chủ nghĩa Freud-mácxít.

Phân tâm học và các vấn đề do nó gợi nên hiện vẫn tiếp tục thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà triết học, xã hội học, tâm lý học, văn hóa học, đạo đức học, chính trị học.

2. SỰ PHÊ PHÁN CỦA ALFRED  ADLER (1870 – 1937) ĐỐI VỚI FREUD

Alfred  Adler là nhà tâm lý học, bác sĩ tâm thần và nhà tư tưởng người Áo, một trong những tiền bối của chủ nghĩa Freud-mới (neo-freudianism)([1]), người sáng lập hệ thống tâm lý học cá nhân, mở đường cho sự ra đời quan điểm của thuyết cá nhân về nhân cách. Khác với Freud đề cao vô thức, Adler được gọi là Ego-psychologist, vì ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của ý thức cá nhân. Con người ý thức được động cơ sâu kín của các hành vi, cử chỉ của mình, chứ không phải tất cả đều được điều khiển một cách vô thức. Năm 1901, Adler lên tiếng ủng hộ cuốn sách mới của Freud – cuốn “Giải mã giấc mơ”, nhờ đó ông được Freud để ý mời tham gia nhóm học thuật mới vừa được thành lập về phân tâm học. Năm 1902, Adler tiếp cận với nhóm Freud, song không tán thành luận điểm của Freud về vai trò của dục tính ở trẻ thơ trong sự phát triển tâm lý. Trong cuốn sách được công bố năm 1907 – “Tìm hiểu tính không hoàn thiện của các cơ quan”, ông đưa ra thông điệp về sự cần thiết phải xác lập các phương thức nghiên cứu phân tâm học khác nhau. Quan hệ giữa Adler và Freud ngày càng xấu đi. Trong vòng hai tháng cuối năm 1910, Freud thay đổi liên tục sự đánh giá của mình về học thuyết của Adler, từ chỗ khen Adler là thông minh, có triển vọng đến chỗ quy kết học thuyết của Adler là rối rắm và không thể hiểu nổi. Cũng năm đó, Adler được chọn làm Chủ tịch Hội phân tâm học Vienna. Nhiều nhà nghiên cứu xem Adler như học trò của Freud, song xét nội dung tư tưởng cả Adler và Jung đều xa dần nguyên tắc xuất phát của phân tâm học Freud. Dù hợp tác với Freud, song họ vẫn kiên trì quan điểm vốn có của mình, vì thế không thể chỉ nói rằng Adler và Jung phát triển phân tâm học, mà đúng hơn là thực hiện sự hiệu chỉnh một phần phân tâm học.

Năm 1912, Adler công bố tác phẩm “Về đặc tính của thần kinh”, trong đó thể hiện những luận điểm cơ bản của tâm lý học cá nhân. Ông cũng cho ra đời Tạp chí Tâm lý học cá nhân, nhưng sau đó bị gián đoạn do chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra. Trong hai năm ông là bác sĩ quân đội tại chiến trường Nga, đến năm 1916 trở về Vienna phụ trách quân y viện. Năm 1919, với sự hỗ trợ của chính phủ, ông thành lập bệnh viện thực hành giáo dưỡng trẻ em đầu tiên. Trong vòng vài năm đã có gần 30 bệnh viện như thế được lập ra tại Vienna, khiến tiếng tăm Adler ngày một vang xa. Lần lượt tại Hà Lan, Đức, Mỹ, những bệnh viện tương tự ra đời. Năm 1922, Tạp chí Tâm lý học cá nhân được phục hồi ở tầm mức quốc tế. Năm 1926, ông nhận lời làm giáo sư tại Đại học Columbia, New York. Từ năm 1936, Tạp chí Tâm lý học cá nhân được công bố bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, năm 1938, bóng mây của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh một lần nữa gây khó khăn cho quá trình phổ biến quan điểm của Adler. Tạp chí bị đóng cửa, cộng sự của Adler bị truy bức, Adler buộc phải sống lưu vong. Năm 1932, Adler chuyển sang sống tại Mỹ. 

Adler thay thế cơ chế dục tính của Freud bằng một hệ thống mục tiêu tưởng tượng (fictional finalism), đó là tập hợp những mục tiêu lý tưởng hoá thúc đẩy con người cố gắng hoàn thiện bản ngã. Tưởng tượng được hiểu là được lý tưởng hoá, không hoàn toàn căn cứ trên thực tế, nhưng hướng dẫn hành động thực tế, chẳng hạn những quan niệm về tự do, bình đẳng, dân chủ không phải lúc nào cũng được vận dụng trong thực tiễn, song chính chúng là cái thúc đẩy con người vươn đến mục tiêu đó bằng nỗ lực của nhiều thế hệ.

Những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Adler tập trung ở cảm giác về sự không hoàn thiện và mặc cảm tự ti, ước muốn khẳng định tính vượt trội, phong cách sống, tâm thế xã hội, cái Tôi sáng tạo, vị thứ sinh ra (anh/chị em trong gia đình chẳng hạn),...

Muốn hiểu ý nghĩa của hành vi, cần hiểu khái niệm tự tôn, tự ti và sự bù trừ. Khi cảm thấy bị yếu kém một mặt nào đó, người ta cố gắng sửa đổi, bù trừ để có được cái tốt đẹp, hoàn thiện đáng tự hào (tự tôn). Adler cho rằng, cảm giác ban đầu ở phần lớn trẻ em là cảm giác về sự không hoàn thiện của mình so với người lớn, dẫn đến mặc cảm tự ti. Sự phát triển nhân cách phụ thuộc vào việc bằng cách nào những complex ấy sẽ được bù trừ. Trong nhiều trường hợp bệnh lý, con người có thể cố bù trừ mặc cảm không hoàn thiện của mình bằng cách áp đặt quyền lực đối với những người khác. Thuyết bù trừ về quyền lực được hiểu theo nghĩa này.

Có nhiều yếu tố cấu thành nhân cách, như di truyền, hoàn cảnh xã hội, thế giới quan cá nhân, nhưng theo Adler, có hai yếu tố đặc biệt quan trọng: Thứ nhất, vị thứ anh chị cả (anh/chị cả và em út có nhân cách, ứng xử khác nhau, được xã hội quy định từ trước); thứ hai, giáo dục gia đình (anh/chị cả trong gia đình khá giả, nền nếp chăm sóc các em nhiều hơn anh/chị cả trong gia đình nghèo, buông lỏng giáo dục).

Phân tâm học, như đã nói trên, ban đầu không phải là một trào lưu, hay khuynh hướng triết học, mà chỉ là một đột phá quan trọng trong việc chữa bệnh rối loạn thần kinh chức năng bằng liệu pháp tâm lý. Tuy nhiên, với thời gian, phân tâm học được biết đến như “khám phá vô thức”, một vấn đề hiếm thấy trong triết học truyền thống, mà đây lại là điều kỳ diệu trong quá trình phi cổ điển hóa triết học, vốn bắt đầu từ những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX. “Khám phá vô thức” – đó là cách đánh giá công bằng và có ý nghĩa nhất đối với phân tâm học, trước hết là phân tâm học Freud “không còn ai bảo vệ toàn bộ học thuyết phân tâm và hình thức nguyên thủy về trị liệu, nhưng cũng không thể phủ nhận ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết ấy đến tư tưởng chung của thời đại, đặc biệt về tâm lý học, tâm lý trị liệu”([2]).  Cho dù những người sau Freud, trong đó có Adler, tìm cách cải biến một số vấn đề của phân tâm học nhằm làm cho phân tâm học phát triển hơn, song cái cốt lõi nhất do Freud mở đầu vẫn còn nguyên giá trị trong phạm vi học thuyết này. Quá trình từ phân tâm học “cổ điển” đến tân phân tâm học và phân tâm học xã hội (tập trung khá rầm rộ trong trường phái Frankfurt) – đó là con đường của sự tìm tòi, khám phá, làm mới mình, quá trình thâm nhập vào đời sống xã hội, và đó cũng là một trong những đặc điểm nổi bật của triết học phương Tây hiện đại. q

 

                 

 

 


(*) Tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

([1]) Ra đời từ những năm 20 của thế kỷ XX trên nền tảng học thuyết Freud, với một số đại diện, như  Karen Horney, Erich Fromm, Harry Stack Sullivan,…

([2]) David Stafford-Clark. Freud đã thực sự nói gì (Lê Văn Luyện, Huyền Giang dịch). Nxb Thế giới, Hà Nội, 1998, tr.29.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: Tầng 11, 12 nhà A, Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007