Tìm kiếm

PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP

15/01/2024

Tạp chí Triết học, số 4, năm 2013

HOÀNG CHÍ BẢO (*)

Tham nhũng là một hiện tượng phổ biến. Tham nhũng tồn tại ở mọi nhà nước, mọi quốc gia dân tộc. Nhà nước Việt Nam hiện cũng phải đối mặt với tham nhũng như một quốc nạn. Trong bài viết này, tác giả đưa ra quan điểm của mình về các vấn đề: 1) Tham nhũng như một vấn nạn lớn nhất trên con đường phát triển; 2) Những biểu hiện phức tạp mang tính đặc thù của tham nhũng ở Việt Nam; 3) Nguyên nhân và những hậu quả của tham nhũng; 4) Những ý kiến đề xuất và khuyến nghị giải pháp phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.

1. Tham nhũng - vấn nạn lớn nhất trên con đường phát triển

Như một hiện tượng phổ biến của mọi nhà nước ở mọi quốc gia dân tộc, Nhà nước ta cũng luôn phải đối mặt với tham nhũng.

Tham nhũng thường đi liền với quan liêu, lãng phí. Ngay từ những ngày đầu xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô.

Tham ô là hành vi ăn cắp, chiếm đoạt của công, tài sản và tiền bạc của Nhà nước, của dân, biến thành của riêng, gây thất thoát, tổn hại cho xã hội. Hành vi ấy là bất chính, phi pháp xảy ra trong bộ máy công quyền của những kẻ lợi dụng chức quyền hay trách nhiệm công vụ để trục lợi, mưu lợi cá nhân. Nó khuất tất, mờ ám, bất minh. Hồ Chí Minh đã gọi hành vi tham ô của những kẻ thoái hóa trong bộ máy là ăn cắp của dân, là có tội với dân, với nước, là kẻ thù của dân, của cách mạng. Nghiêm khắc với những hành vi tội lỗi đó, Người nhấn mạnh, phải trừng trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai. Căn bệnh này vốn có trong nhà nước, phát triển thành tham nhũng, là sách nhiễu, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho dân, cốt để moi tiền của dân. Tham nhũng không chỉ là hành vi, thủ đoạn cá nhân, mà còn là tham nhũng tập thể, theo nhóm, ngày nay gọi  là “lợi ích nhóm” với mức độ lớn, gây tổn thất nặng nề cho xã hội, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc và diễn biến rất phức tạp.(*)

Biểu hiện cấu thành tham nhũng là đưanhận hối lộ hoặc tinh vi, kín đáo, hoặc lộ liễu, trắng trợn, mặc cả, mua bán, lợi dụng mọi kẽ hở trong luật pháp, trong thể chế và mọi sơ hở, yếu kém trong quản lý nhà nước để trục lợi.

Trong đà phát triển của kinh tế thị trường, khi đồng tiền lên ngôi, có thể thao túng cả bộ máy quyền lực và những người nắm giữ, thực thi quyền lực được nhân dân ủy thác để mưu lợi riêng, làm giàu bất chính, bất nghĩa thì xuất hiện quyền lực của đồng tiền, sự liên minh ma quỷ giữa quyền và tiền của những công chức, quan chức thoái hóa với những kẻ nắm tiền, dùng tiền chi phối quyền lực, gây ảnh hưởng tới hoạch định và thực thi chính sách, luật pháp. Một phương diện khác, quyền cũng đẻ ra tiền, lợi dụng chức quyền, cơ hội, vị thế, hoàn cảnh để kiếm tiền. Do vậy, tham nhũng trong kinh tế luôn gắn với tham nhũng trong chính trị và được gọi là tham nhũng chính sách, khi chức quyền được huy động vào việc lợi dụng để trục lợi, tạo ra cái giá của chức quyền, địa vị. Chạy danh, chạy chức, chạy quyền đã và đang diễn ra bằng tiền và vì tiền.

Tham nhũng về quyền lực, tham nhũng chính trị, chính sách là tham nhũng nặng nề và nguy hiểm nhất, nó bộc lộ sự hư hỏng của con người, sự vẩn đục trong bộ máy, sự đánh mất nhân cách, liêm sỉ, lòng tự trọng, nghĩa vụ, bổn phận của người cán bộ, công chức; đó chính là những kẻ thoái hóa biến chất. Thoái hóa đạo đức, biến dạng của quyền lực tất yếu dẫn tới phi pháp, phạm pháp.

Thực trạng này là gay gắt, nghiêm trọng, trở nên bức xúc, nhức nhối, như một tệ nạn, như một độc tố làm hỏng cả bộ máy thiết chế, thể chế lẫn con người, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập với sự gia tăng những mặt trái, những hệ lụy của nó.

Tham nhũng là một hiện tượng lịch sử gắn liền với nhà nước, từ khi có nhà nước thì cũng đồng thời có tham nhũng. Nó như một chứng bệnh dai dẳng khó trị, càng khó hơn khi không có một nhà nước mạnh để đủ sức chữa trị thật triệt để bằng những giải pháp quyết liệt, đồng bộ cả kinh tế lẫn chính trị, cả luật pháp lẫn đạo đức, cả giáo dục lẫn kiểm tra thường xuyên và xử lý nghiêm khắc, triệt để - đúng người, đúng tội. Một nhà nước mạnh để đủ sức tự bảo vệ chính thể khỏi bị vấy bẩn bởi tham nhũng và cũng đủ dũng khí lẫn sức lực để tuyên chiến với tham nhũng ngay từ trong bộ máy của mình và trong xã hội phải là một nhà nước trong sạch, coi trọng liêm chính, thượng tôn pháp luật, xiết chặt kỷ cương để xử lý tham nhũng một cách nghiêm minh, công khai, công bằng, bình đẳng, tuyệt đối không có vùng cấm, không có ngoại lệ với bất cứ cấp nào, với bất cứ một ai. Đó phải thực sự là một nhà nước pháp quyền thành thục trong một xã hội mà dân chủ đã phát triển rộng rãi, văn hóa dân chủ với nội dung cốt yếu của nó là văn hóa pháp luật và văn hóa đạo đức đã thấm sâu vào tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền, đã trở thành lối sống và thói quen của công dân, công chức cũng như cộng đồng xã hội. Một trình độ hiện đại như thế của nhà nước và xã hội không thể có ngay một lúc trong nhà nước, càng không dễ dàng trở thành tập quán pháp và nhu cầu văn hóa trong xã hội, trong dân chúng. Nó cần có thời gian cho sự trưởng thành, nhất là ở những xã hội còn lạc hậu, chậm phát triển, kém phát triển, ở đó những di tồn, tàn tích của quá khứ phong kiến - thực dân chưa được xóa bỏ, cải tạo hết, lại không trải qua dân chủ tư sản, nhà nước còn đang trong quá trình trở thành nhà nước pháp quyền.

Hơn nữa, trên thực tế, dường như không một nhà nước nào, không một xã hội nào, từ khi có nhà nước đến nay lại có thể miễn dịch với tham nhũng. Vi rút nguy hiểm và tệ hại này trong cơ thể nhà nước đã làm cho không biết bao nhiêu thể chế, bao nhiêu chính phủ rơi vào suy thoái, khủng hoảng và sụp đổ trước những làn sóng phẫn nộ của dân chúng. Tư tưởng, ý thức hệ rất quan trọng nhưng cũng không thể cứu được nhà nước và chế độ khỏi tham nhũng.

Chủ nghĩa xã hội và nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng vậy. Trong buổi đầu sinh thành chủ nghĩa xã hội, khi Nhà nước Xôviết đã bắt đầu vận hành, V.I.Lênin đã sớm nhận thấy tệ quan liêu và nạn hối lộ (tham nhũng) là những kẻ thù nguy hiểm, có thể giết chết chủ nghĩa xã hội. Phát hiện và cảnh báo đó cách đây đã hơn 90 năm. Xa hơn nữa, Công xã Pari (1871), khi C.Mác và Ph.Ăngghen còn sống, đã từng tìm tòi cách thức để bộ máy chính quyền công xã không rơi vào quan liêu và các quan chức, công chức được bầu lên và nắm chức vụ không rơi vào tham nhũng. Gần với thời nay hơn, trong những ngày đầu xây dựng chính thể dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã chú trọng giáo dục cán bộ, kiểm tra việc chấp hành công vụ, sớm quan tâm tới công tác thanh tra của chính phủ để phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi tiêu cực trong bộ máy nhà nước. Người đã phê phán các biểu hiện cậy thế, cậy quyền, tư túng, bè phái, biển thủ công quỹ, ức hiếp, trù dập dân chúng. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nhà nước dân chủ cộng hòa do Người đích thân chỉ đạo xây dựng và trực tiếp soạn thảo là bản Hiến pháp thể hiện nổi bật tính chất Dân chủ - Pháp quyền. Các sắc lệnh và đạo luật được ban hành đều nhằm vào bảo vệ lợi ích và những quyền cơ bản của công dân, đều thể hiện tính nghiêm ngặt trong việc xử lý tham ô, hối lộ và tham nhũng. Điển hình nhất là “Quốc lệnh”, Người đều ghi mức trừng phạt cao nhất với tội tham nhũng và coi hại dân là phản quốc.

Pháp luật, pháp quyền phải mang sức mạnh “thần linh” để bảo vệ dân, “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”. Ngày nay, trong cuộc chiến chống tham nhũng, những chỉ dẫn đó của Hồ Chí Minh phải được vận dụng triệt để.

Tuy nhiên, chống tham nhũng là một công việc lâu dài, thường xuyên, bằng mọi nỗ lực của nhà nước và xã hội để giảm thiểu những tổn hại của tham nhũng xuống mức thấp nhất, chứ không thể ngay lập tức xóa bỏ được tham nhũng theo chủ quan duy ý chí; bởi còn nhà nước thì còn tham nhũng. Hy vọng một nhà nước vô trùng, không quan liêu, không tham nhũng trong khi nhà nước đang tồn tại và chắc chắn còn tồn tại rất lâu dài... là một quan niệm giản đơn, thậm chí ảo tưởng, không thực tế. Theo đó, một nhà nước mạnh, trong sạch cũng như Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh phải chứng tỏ trong thực tế sức mạnh, hiệu lực và hiệu quả phòng ngừa và xử lý tham nhũng. Thái độ đánh giá của dân, niềm tin và sự ủng hộ của dân đối với Đảng và Nhà nước do Đảng lãnh đạo, tức là mức độ tín nhiệm xã hội mà những người cầm quyền và bộ máy thực thi quyền lực nhận được từ phía người dân sẽ nói lên điều đó.

Tham nhũng chẳng những gây tổn hại nghiêm trọng tới lợi ích của dân và cộng đồng xã hội, mà còn dẫn tới những phản cảm nặng nề trong tâm lý, ý thức của quần chúng. Nó phá hoại nền dân chủ, cản trở sự tiến bộ và phát triển, thậm chí làm biến dạng phát triển, thành phản phát triển. Tham nhũng là vấn nạn lớn nhất trên con đường phát triển. Vì thế, dân chúng và xã hội luôn mong muốn và đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có quyết tâm thực sự và có hành động mạnh mẽ thực sự để phòng chống tham nhũng.

Đây là thước đo chính xác nhất cho thấy nền chính trị dân chủ, liêm khiết đến đâu, có vì dân hay không? Trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức của những người cầm quyền, của lực lượng và bộ máy cầm quyền đều quy tụ vào đó.

Nếu thực sự vì dân, lại biết dựa vào dân, biết tận dụng sức mạnh của dân thì cuộc chiến chống tham nhũng dù rất khó khăn, phức tạp vẫn có thể thực hiện được và đạt tới kết quả, từ kết quả từng bước đến kết quả nhiều hơn, tốt hơn ở mỗi bước tiếp theo và tiến đến thành công, loại bỏ ung nhọt tham nhũng, làm phục hồi và phát triển sức mạnh, uy tín, tác dụng và ảnh hưởng của Đảng và Nhà nước.

Như thế, dù là vấn nạn lớn nhất trên con đường phát triển nhưng tham nhũng hoàn toàn có thể xử lý được bằng tổng hợp sức mạnh của Đảng, Nhà nước, của hệ thống chính trị gắn liền với sức mạnh của xã hội, của toàn dân một khi được phát động, được thực hiện kiên quyết, triệt để.

Gọi tham nhũng là vấn nạn lớn nhất trên con đường phát triển vì tham nhũng đã từng được phát hiện nhưng lại chậm xử lý, nhất là xử lý không nghiêm minh.

Nhận thức về sự nguy hại của tham nhũng, coi đó là quốc nạn cũng đã được nhắc đến từ lâu, từ hơn hai thập kỷ nay nhưng quốc nạn ấy vẫn chưa được khắc phục, thậm chí mức độ trầm trọng và nguy hiểm của tham nhũng còn gia tăng. Tham nhũng kinh tế, tài chính đã lan vào chính trị, ngấm sâu vào bộ máy, thể chế, luôn song hành giữa tiền và quyền, giữa quyền và tiền.

Nghị quyết của Đảng về phòng chống lãng phí, tham nhũng đã ban hành và triển khai từ lâu vẫn chưa tạo được chuyển biến và hiệu quả như mong muốn.

Pháp lệnh chống tham nhũng đã được nâng thành Luật chống tham nhũng. Tổ chức chỉ đạo chống tham nhũng ở tầm cấp quốc gia đã được thành lập và hoạt động nhưng tham nhũng vẫn hiện hữu, vẫn hoành hành. Thiệt hại do tham nhũng mà xã hội và người dân phải gánh chịu ngày một lớn. Vì tham nhũng mà uy tín, thanh danh của Đảng, của Nhà nước bị tổn thương; lòng tin của dân với Đảng, với Nhà nước, với chế độ giảm sút nghiêm trọng, đi liền với những bất bình, phản ứng gay gắt. Lòng dân không yên thì thể chế càng không thể bình yên.

Tham nhũng và suy thoái như bóng với hình ở trong tổ chức, bộ máy và một bộ phận không nhỏ những người cầm quyền, giữ chức, có trọng trách bảo vệ tài sản, nguồn vốn của quốc gia nhưng lại làm hao mòn, thất thoát, dùng thủ đoạn chiếm đoạt, làm cho kinh tế suy giảm sức tăng trưởng, đời sống nhân dân khốn khó, các đối tác nước ngoài cắt giảm đầu tư.

Tham nhũng là chỉ báo về độ không an toàn, bất định của thể chế và môi trường kinh doanh trong con mắt của các nhà đầu tư.

Vấn nạn tham nhũng còn có ở nghịch lý, càng chống tham nhũng thì tham nhũng càng nhiều, càng tăng, càng nặng và ngày càng tinh vi. Cái nghịch lý này là sự hiện hình trên bề mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nó lại nói lên cái hợp lý từ chiều sâu bản chất của hiện tượng này. Vì sao vậy? Vì một sự thật cần phải nhìn thẳng vào và nói ra, nói đúng sự thật. Đó là tính nửa vời, không triệt để trong chống tham nhũng. Đó là chống tham nhũng trên lời nói lại không đi liền với chống tham nhũng bằng việc làm, bằng hành động. Nó đem lại nỗi hoài nghi xã hội, trong không ít trường hợp tuyên bố chống tham nhũng chỉ như tấm bình phong che chắn tinh vi cho những hành vi tham nhũng trong bóng tối.

Đó là sự không minh bạch và sự thiếu vắng trách nhiệm giải trình. Ở đâu không minh bạch, không thực hiện trách nhiệm giải trình thì ở đó, có mảnh đất thuận lợi cho tham nhũng nảy sinh; nó ngầm dung dưỡng, bảo kê cho tham nhũng hoành hành. “Xã hội đen”, “kinh tế ngầm”, “giao dịch ngầm”, “lợi ích nhóm” xuất hiện, tồn tại, phát triển là vì thế.

Bệnh “chai thuốc”, “nhờn thuốc”, không có hiệu nghiệm, không còn tác dụng trong chữa trị tham nhũng cũng là vì thế. Hình thành một tâm trạng lo lắng, một triết lý tiêu cực, bất lực rằng “Vô dược khả y tham nhũng bệnh” (không có thuốc nào trị được tham nhũng). Nếu đây là sự thật thì sự tồn vong của chế độ, sinh mệnh của Đảng bị đe dọa, bị thách thức đến mức nguy hiểm. Sự đổ vỡ là không tránh khỏi(1).

Tổ chức minh bạch thế giới điều tra tham nhũng ở nước ta suốt hơn 10 năm nay, dựa trên tất cả các thông tin được phân tích đã đánh giá rằng, mức độ tham nhũng ở Việt Nam là trầm trọng và nguy hiểm, tiến triển chống tham nhũng rất chậm, được lượng hóa bởi điểm số từ 2,4 đến 2,7 và 2,9 trên 10 bậc trong suốt nhiều năm, đứng vào hạng gần như cuối cùng trong số các nước được xem xét về tham nhũng và sự giảm thiểu tham nhũng(2).

Rõ ràng, trên con đường phát triển, tham nhũng đang là một vấn nạn đáng lo ngại nhất. Có vượt qua được các điểm nghẽn của phát triển, có thực hiện được đột phá để phát triển bền vững hay không, ở Việt Nam, vào lúc này vấn đề nóng bỏng, nhức nhối nhất là chống tham nhũng.

2. Những biểu hiện phức tạp mang tính đặc thù của tham nhũng ở Việt Nam

Tham nhũng là hiện tượng phổ biến mang tính toàn cầu. Phản ứng tham nhũng mang tính xã hội rộng lớn ở khắp mọi nơi, mọi quốc gia, toàn dân và toàn nhân loại. Chống tham nhũng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia, quốc tế và toàn thế giới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập.

Hàng loạt các hành vi, các thủ đoạn phạm tội có liên quan tới tham nhũng, gắn liền với tham nhũng đã bộc lộ và đang diễn ra: Buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế, xâm phạm bản quyền, giả mạo nhãn mác sản phẩm, thương hiệu trong kinh tế, trong sản xuất kinh doanh, trong thực hiện các dự án, lựa chọn các nhà thầu, cả trong các hoạt động thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, phúc lợi công cộng, dịch vụ xã hội và văn hóa tinh thần...

Ở Việt Nam, trong đà phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, tham nhũng ở trong nước còn kết nối với tham nhũng ở ngoài nước, thủ phạm còn có cả yếu tố nước ngoài.(2)

Nhận diện tham nhũng ở Việt Nam cho thấy những biểu hiện phức tạp đặc thù của nó là đa dạng, muôn vẻ sắc thái, loại hình, mức độ, cũng như hậu quả. Nguyên nhân dẫn tới tham nhũng cũng vậy.

Trước hết, cần phải nhận rõ ai tham nhũng ở những lĩnh vực nào có khả năng xảy ra tham nhũng?

Hiển nhiên là, dân không thể tham nhũng, xét về mặt nguyên tắc. Thường thấy tham nhũng xảy ra ở những người có quyền chức, dù to hay nhỏ, ở những người được giao thi hành phận sự công dù chỉ là công chức thừa hành hay ở các quan chức có thẩm quyền cao, từ việc hàng ngày ở cơ sở đến những quyết sách ở các địa phương, đến tận cấp cao ở Trung ương.

Dân chúng số đông là đối tượng bị tổn hại bởi tham nhũng, đồng thời cũng không ít người dân bị cuốn vào hành vi cấu thành tham nhũng một cách không tự giác. Vì nhiều lẽ, họ trở thành kẻ tiếp tay cho tham nhũng, dung dưỡng cho tham nhũng, cho dù không cố ý. Đây vừa là hạn chế về ý thức và trình độ của dân vừa là sự yếu kém của luật pháp, của quản lý Nhà nước, vừa là những kẽ hở trong chính sách và cơ chế, trong pháp luật, dẫn tới những hành vi “cố ý làm trái”.

Cũng như vậy, dân chủ của dân bị vi phạm hoặc bị hình thức hóa nhưng không ít trường hợp, dân cũng có những hành vi tự phát, manh động, trái luật, chống lại người của nhà nước đang thi hành công vụ. Từ chỗ dân là nạn nhân của tình trạng mất dân chủ, vi phạm dân chủ đến chỗ dân trở thành thủ phạm vi phạm pháp luật, vi phạm phép tắc, luật lệ. Dân chủ chưa đạt được đã lại rơi vào hỗn loạn, tự do vô chính phủ. Trong trường hợp này, dân cũng phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra tham nhũng, vi phạm dân chủ và pháp luật. Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ, sở dĩ quan tham nhũng là vì dân dại. Nếu dân khôn ngoan thì quan dù có tham cũng không tham nổi.

Về mặt lý thuyết, ở mọi lĩnh vực của đời sống, nếu không kiểm soát được, nếu buông lỏng kiểm tra, giám sát thì đều có khả năng xảy ra tham nhũng. Càng ít công khai minh bạch thông tin, nhất là thông tin về kinh tế - tài chính, thông tin xét xử các vụ án và thi hành án thì càng nảy sinh nhiều vụ tham nhũng. Trách nhiệm giải trình và chế độ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và người đứng đầu càng thiếu và yếu, càng mù mờ, không xác định rõ ràng thì tham nhũng càng dai dẳng. Pháp luật không đi kèm các chế tài, hình thức hóa việc thực hiện, theo kiểu “phạt cho tồn tại” thì sẽ dẫn đến tình trạng vô hiệu hóa ngay cả pháp luật, coi thường luật pháp. Bệnh “chai thuốc”, “nhờn thuốc” như đã nói ở trên là hệ quả của tình trạng nhu nhược, yếu kém, thuộc về chủ quan, trách nhiệm của các chủ thể lãnh đạo, quản lý các cấp.

Mức độ tham nhũng nặng nề ở Việt Nam, tính nan giải, khó trị của nó được lý giải từ sự yếu kém của thể chế, tính nửa vời trong chỉ đạo thực hiệnsự thoái hóa của không ít quan chức, công chức trong bộ máy, thậm chí tham nhũng có cả trong hoạt động tư pháp, trong điều tra, xét xử, thi hành án. Tình trạng pháp luật có, pháp chế cũng có nhưng pháp trị thì không hoặc yếu kém và hình thức - đó là một thực tế phổ biến hiện nay(3).

- Có tham nhũng nhỏ, vặt vãnh, tủn mủn trong việc sách nhiễu, cố ý gây phiền hà cho người dân, trì hoãn, dây dưa giải quyết các công việc hành chính - dân sự ở cơ sở của những công chức, viên chức chính quyền cơ sở, mục đích là buộc người dân muốn được việc thì phải móc tiền trong túi ra. Thủ đoạn của kiểu tham nhũng này là cố ý làm phức tạp hóa những việc đơn giản, lợi dụng những quy định rườm rà, hình thức của thủ tục hành chính để hành dân.

- Có tham nhũng lớn trong những giao dịch tìm kiếm việc làm, thuyên chuyển chỗ làm việc, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm. Càng ở cấp cao, càng ở những vị trí có khả năng sinh lợi nhiều thì mức tham nhũng càng lớn. Những giao dịch, thỏa thuận này thường đi kèm tác nhân môi giới, trung gian, tạo ra luật chơi bất thành văn, hình thành những quy định ngầm, mọi việc, mọi biện pháp để đạt mục đích đều được định hình bởi đồng tiền và tiền tệ hóa. Nó tạo ra cách hành xử theo kiểu “tạm ứng trước”, “thu hồi sau”, tham nhũng đẻ ra tham nhũng.

- Có tham nhũng cực lớn, đan xen, phối hợp cả tham nhũng cá nhân lẫn tham nhũng theo nhóm, gọi là lợi ích nhóm (hay nhóm lợi ích bất chính, phi pháp). Đây là dạng tham nhũng có tổ chức, có chủ mưu, thao túng vào tổ chức, thể chế và chính sách cùng những người có trọng trách, có thẩm quyền giải quyết. Loại tham nhũng này thường xảy ra ở các hoạt động dự án, đấu thầu, các hợp đồng kinh tế, đất đai, tài chính - ngân hàng, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, mở mang khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế. Đất đai và thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, kinh doanh bất động sản chỉ là một trong những trường hợp, những tình huống nổi bật trong vô số những trường hợp, những tình huống tham nhũng hiện nay.

Các mức độ, loại hình tham nhũng thường gắn liền với các biểu hiện của nó. Ở trên, ta đã nói tới tình trạng chạy danh, chạy chức, chạy quyền. Còn có các kiểu “chạy” khác nữa, từ nhỏ đến lớn và rất lớn - đó là chạy trường, chạy lớp, cho đến chạy dự án và chạy án. Đây mới là tiêu điểm của những nhức nhối, bức xúc trong vòng xoáy của tiền bạc và quyền lực, trong những mua bán, đổi chác, tội phạm và tệ nạn.

Để “chạy” được thì phải thiết lập các mối quan hệ, các liên kết nhóm, để đạt mục đích phải kích hoạt các quan hệ ấy bằng tiền và tiền tệ hóa đi kèm với các phương tiện, thủ đoạn khác, bất minh, bất chính, bất nghĩa, thậm chí dùng cả những thủ đoạn gây tội ác, phi nhân tính.

Dù biểu hiện khác nhau, mức độ khác nhau nhưng tham nhũng đều diễn ra như một hội chứng cướp đoạt, sự lợi dụng quyền và tiền để làm giàu và mưu lợi bất chính. Ngôn ngữ cửa miệng từ người dân và cả trong công chức nhà nước đã minh chứng cho hiện trạng tham nhũng phổ biến ở nước ta, từ “phong bì và nền công nghiệp phong bì” đến “làm luật”, cho đến “công nghệ bôi trơn”(4).

3. Nguyên nhân và hậu quả, một đôi điều khái quát vắn tắt

Có những nguyên nhân sâu xatrực tiếp, có những nguyên nhân khách quanchủ quan dẫn tới tham nhũng ở Việt Nam. Bước chuyển sang kinh tế thị trường cùng với mở cửa ra thế giới bên ngoài và hội nhập quốc tế từ trên dưới một thập kỷ nay đã tạo ra xung lực mạnh cho sự phát triển năng động của nền kinh tế nước ta. Cùng với kinh tế tăng trưởng và phồn vinh, xã hội ta  cũng đang biến đổi mạnh về cơ cấu với sự đa dạng các giai tầng, các nhóm xã hội - nghề nghiệp. Đó là một xu hướng tích cực. Song, nước ta chưa có một nền kinh tế thị trường hiện đại, thành thục và văn minh theo đúng nghĩa của nó. Văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân cũng chưa định hình các chuẩn mực và giá trị. Tính sơ khai, hoang dã của kinh tế thị trường phôi thai vẫn còn mạnh; nó chứa đầy những tiêu cực, tệ nạn với sức mạnh của đồng tiền, của sự trỗi dậy chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ cực đoan, kích thích tâm lý hưởng thụ và làm giàu bằng mọi giá. Nhà nước pháp quyền còn đang trong quá trình xây dựng. Xã hội chưa trưởng thành về dân chủ và văn hóa dân chủ. Trên con đường hiện đại hóa để trở thành xã hội hiện đại, “dân chủ, công bằng, văn minh” chúng ta vấp phải vô số những lực cản, cả hữu hình lẫn vô hình kìm hãm phát triển. Những tàn dư lạc hậu, lỗi thời, quá thời của quá khứ cùng với những tì vết của thực dân - phong kiến còn kết đọng, trầm tích rất nặng nề, chưa giải tỏa hết. Trình độ phát triển của nước ta chưa đạt tới trình độ một nước công nghiệp, nên chưa có đầy đủ những tất yếu cho việc giải thể cấu trúc xã hội cổ truyền để xác lập cấu trúc xã hội hiện đại, dân chủ - pháp quyền. Những hạn chế, yếu kém, bất cập trong quản lý, chất lượng thấp của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ cũng như dịch vụ xã hội, môi trường xã hội dân chủ, công khai minh bạch thông tin, sự thấp kém và không đồng đều về trình độ học vấn, văn hóa giữa các vùng miền, giữa các đối tượng xã hội, từ người dân đến công chức, quan chức... đều bắt nguồn từ những hạn chế lịch sử đó.

Tham nhũng từ thấp đến cao, từ đơn lẻ vụ việc, cá nhân, cá thể đến những can dự của số đông, của tập thể, phe phái, tập đoàn, vì thế mà xuất hiện, lây lan trở thành phổ biến.

Nhưng trực tiếp dẫn đến tham nhũng, dung dưỡng tham nhũng, làm cho tham nhũng trở thành vấn nạn đến mức nguy hiểm lại thuộc về chủ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy, trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý với luật pháp - cơ chế - chính sách chứa đựng rất nhiều bất ổn đang phải ra sức sửa chữa, tháo gỡ.

Có thể nói tới những vấn đề sau đây:

Thứ nhất, hệ thống tổ chức bộ máy cồng kềnh, tầng nấc, tập trung quan liêu rất nặng nề. Quan liêu dẫn tới tham nhũng. Quan liêu cũng là một vấn nạn không kém gì so với vấn nạn tham nhũng. Cải cách hành chính và cải cách tư pháp không triệt để, mục tiêu xây dựng một nền hành chính công minh bạch, phục vụ người dân và doanh nghiệp không đạt được như mong muốn, nhất là cải cách thủ tục hành chính.

Thứ hai, hệ thống thể chế luật pháp và tổ chức thực hiện, thi hành luật pháp không đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu lực yếu, hiệu quả kém. Vừa bị “rừng luật” cản trở, vừa bị “luật rừng” thao túng. Chức năng phục vụ dân sinh, xã hội của nhà nước không được phát huy lành mạnh. Các quan hệ Dân chủ - Pháp luật - Kỷ cương, Công dân - Nhà nước, công chức với công dân không rành mạch, sáng tỏ do thiếu công khai, minh bạch, thiếu vắng trách nhiệm và chế độ trách nhiệm. Đó là kẽ hở nghiêm trọng trong quản lý, nuôi dưỡng tham nhũng.

Thứ ba, chính sách lạc hậu, đặc biệt là chính sách tiền lương lại thêm tác động của lợi ích nhóm dẫn tới tiêu cực trong hoạch định và thực thi chính sách. Tình huống đã xuất hiện: Chính sách phục vụ dân hay phục vụ lợi ích nhóm? Bất bình, phản ứng của dân xoay quanh vấn đề này. Tham nhũng trong chính trị, trong chính sách làm quyền lực chân chính bị tha hóa, suy thoái, hư hỏng ngày càng trầm trọng trong một bộ phận công chức, quan chức gây tổn hại tới lợi ích và cuộc sống của dân.

Thứ tư, kiểm soát quyền lực chậm trễ cả trong nhận thức và hành động. Dân chủ biến thành “quan chủ”, đúng như điều mà Hồ Chí Minh đã cảnh báo nghiêm khắc. Phản biện, tư vấn, kiểm tra, giám sát yếu kém vừa làm cho dân chủ chậm phát triển, vừa không ngăn chặn được tham nhũng, tiêu cực ngay trong bộ máy.

Thứ năm, đội ngũ công chức thiếu tính chuyên nghiệp. Hoạt động điều hành, quản lý thiếu tính hiện đại. Văn hóa từ chức, văn hóa xin lỗi chậm hình thành, không thực hiện nghiêm túc, lại rất dễ có nguy cơ bị hình thức hóa.

Thứ sáu, cơ chế nhân sự, dùng người, đặt người vào việc bộc lộ nhiều bất ổn. Thiếu động lực cho tài năng phát lộ, phát triển. Nhân tài, hiền tài, tinh hoa khó, thậm chí không vào được bộ máy. Cơ chế vô hình “xin - cho”, tuy bất thành văn nhưng rất tai hại. Cùng với nó là “lợi ích nhóm”, tư duy nhiệm kỳ là những dinh dưỡng màu mỡ cho tham nhũng phát triển.

Chính sách và cơ chế hiện hành vô hình chung chỉ khuyến khích con người ta chạy theo quan chức, địa vị, bổng lộc, không khuyến khích mọi người theo con đường chuyên gia. Đó là đầu mối của những lệch lạc chuẩn mực giá trị và làm hỏng nhân cách, nhất là tạo ra một thứ chủ nghĩa cơ hội, thực dụng tệ hại làm hỏng lớp trẻ mới vào đời, lập thân lập nghiệp.

Thứ bảy, trình độ học vấn, văn hóa, nhất là văn hóa pháp luật thấp, không chỉ ở dân thường, mà còn ở tầng lớp có học thức, ở cả công chức và quan chức. Coi thường pháp luật còn diễn ra phổ biến.

Thứ tám, bất công xã hội còn nhiều. Phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Không kiểm soát được biến động tài sản và thu nhập, nhất là xử lý tình trạng giàu lên nhanh chóng một cách phi pháp, ngoài lao động.

Thứ chín, tình trạng hư danh, hám danh, tham chức, tham quyền, trục lợi kèm theo sự suy đồi đạo đức, dư luận xã hội tích cực phát triển một cách yếu ớt, không tạo được áp lực đủ mạnh chống tham nhũng.

Thứ mười, sự thiếu gương mẫu của không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý, kể cả ở cấp cao. “Thượng bất chính hạ tất loạn...”. Tổng kết phòng ngừa, răn đe của người xưa để phòng tránh đã không tránh được, lại đã hiện hình trong bộ máy, trong những người nắm giữ chức quyền ngày nay.

Đó là những đường nét chính nhận diện mặt chủ quan của nguyên nhân tham nhũng ở nước ta.

Trách nhiệm cao nhất để xảy ra tình trạng này, không ở đâu khác ngoài lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước.

Từ đó, có thể thấy hậu quả nặng nề, tổn thương xã hội nghiêm trọng mà tham nhũng gây ra. Đó là:

- Xã hội bất an, bất ổn, tiềm ẩn những mâu thuẫn, xung đột có nguy cơ phá hỏng sự nghiệp đổi mới và các mục tiêu phát triển của nước ta, đẩy tới các phản phát triển.

- Đạo đức xã hội, đạo đức gia đình, đạo đức cá nhân rơi vào trạng thái suy đồi. Các giá trị tinh thần nền tảng bị xem nhẹ, chủ nghĩa “ma kê nô” (mặc kệ nó), bệnh vô cảm tràn lan, niềm tin, lòng tin của dân giảm sút.

- Kinh tế chậm phát triển, tái lạm phát và khủng hoảng có nhiều dấu hiệu tăng lên. Nợ xấu, nợ công gia tăng, đi tới giới hạn nguy hiểm. Tham nhũng có thể làm hỏng cả vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, làm giảm sút nghiêm trọng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho phát triển tiềm lực quốc gia.

- Làm suy yếu Đảng và Nhà nước, đe dọa tới sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ, như Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI của Đảng đã chỉ ra.

4. Những đề xuất và khuyến nghị giải pháp

Cuộc chiến chống tham nhũng vừa hết sức bức xúc, nhức nhối vừa rất cơ bản, lâu dài, thường xuyên, nên cần đến một hệ thống các giải pháp đồng bộ và mạnh mẽ để ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý kịp thời, quyết liệt. Do đó:

- Cần thiết phải đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong toàn Đảng, toàn dân, trong Nhà nước và các đoàn thể, tạo ra áp lực xã hội và đề cao dũng khí của cả dân tộc trong việc giải quyết quốc nạn tham nhũng. Hai trụ cột lớn, có thể coi như những bệ đỡ, những con đập chắn sóng đối với cơn lũ tham nhũng nguy hiểm này là Pháp luậtĐạo đức. Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay và lâu dài phải tạo được sức mạnh, trở thành động lực chính trị, tinh thần trong chống tham nhũng. Phải tiến hành nghiêm chỉnh việc dạy và học, giáo dục và thực hành đạo đức trong toàn xã hội, từ gia đình, nhà trường đến các công sở, các tổ chức kinh tế - xã hội, các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn. Một bộ luật đạo đức của xã hội là cần thiết phải tính đến, đồng thời trong giáo dục, phải coi đạo đức là môn học hàng đầu, ở tất cả các bậc học. Tất cả mọi người lao động, các công chức bắt buộc phải qua khóa học đạo đức công chức, công vụ trước khi ngồi vào nhiệm sở. Giáo dục liêm sỉ trong tất cả các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể và trong xã hội bằng tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng. Dấy lên trong xã hội luồng dư luận phê phán nghiêm khắc đối với tham nhũng, biết trọng liêm sỉ, danh dự, biết hổ thẹn, biết nhục vì tham nhũng.

Pháp luật, đặc biệt là luật chống tham nhũng phải coi chống tham nhũng là chống một tội ác xã hội, trừng trị cái ác để bảo vệ cái thiện, sự lương thiện vì sự bình yên của cuộc sống, sự an toàn của phẩm giá, sự lành mạnh của xã hội. Áp dụng “Quốc lệnh” của Hồ Chí Minh vào sự trừng phạt tham nhũng, bất chính, bất liêm. Đã tham nhũng thì phải trừng trị. Quyền càng cao, chức càng cao thì phải xử càng nặng để nêu gương, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

- Áp dụng tổng hợp pháp luật - chính sách - cơ chế và chế tài theo kinh nghiệm của Singapore, sao cho mọi người giác ngộ và thực hiện: Không muốn tham nhũng, không dám tham nhũng và cũng không thể tham nhũng bởi hàng rào kiểm soát và sự cảnh báo trừng phạt. Trong những việc ấy, phải cải cách triệt để chế độ tiền lương. Chính những bất hợp lý về lương, lương không đủ sống nên đẻ ra hội chứng cướp đoạt, làm cho công chức, viên chức không tận tâm, tận lực với công việc, với nghề, với người, thiếu vắng trách nhiệm và lẩn trốn trách nhiệm.

- Kiểm soát hành vi để phát hiện sớm và nghiêm trị kịp thời bằng những biện pháp quản lý, bằng công nghệ, đồng thời giáo dục ý thức tự kiểm soát, tự điều chỉnh của mỗi người.

- Bảo vệ người tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng cùng gia đình họ bằng sức mạnh luật pháp và an ninh, đồng thời cũng nghiêm trị những sự lợi dụng chống tham nhũng để tố cáo sai, vu khống, làm nhục, làm hại người khác vì những động cơ xấu.

- Lựa chọn nghiêm ngặt nhân sự lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, đặc biệt là cấp cao, dựa trên tiêu chuẩn thực sự Đức – Tài; không chỉ căn cứ vào đánh giá, dự kiến của tổ chức, mà còn thẩm định bởi đánh giá của xã hội, của công chúng, nhất là đảm bảo sự minh bạch thông tin, kể cả thông tin về tài sản. Phương châm là khuyến khích chuyên gia, tinh lọc, sàng lọc bộ máy quyền lực theo phương châm “thà ít mà tốt”. Đảm bảo có mặt trong bộ máy những tinh hoa, thực đức, thực tài, thực lực, thực chất. Muốn vậy, phải công khai tuyển chọn, tranh cử, xác lập hàng rào pháp lý - đạo đức để không thể dùng tiền, dùng quan hệ mà chạy chức, chạy quyền. Một khi đã đề cao thực chất và thực sự trọng dụng nhân tài, hiền tài thì những cái giả, những của giả, những “giả nhân cách” của kẻ cơ hội sẽ bị thải loại. Phải lắng nghe những thông tin phản hồi, những tiếng nói mách bảo của người dân đối với thể chế.

- Loại bỏ những hư danh, những thói hám danh, hám chức, tham quyền, tham tiền bằng một chế độ kiểm soát và xử lý nghiêm ngặt, sao cho thật - giả đều phải bộc lộ dưới ánh sáng của đạo lý và công lý.

Xóa bỏ đẳng cấp, đặc quyền, đặc lợi của những người nắm quyền, coi nắm giữ quyền lực chỉ là nghĩa vụ bổn phận do dân ủy thác, ủy quyền và nắm giữ chức vụ có thời hạn. Cái căn bản của cuộc sống đối với mọi người là nghề chuyên môn thành thạo, hữu ích cho xã hội, được sử dụng, được toàn dụng, được đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng. Được như thế, có thể chấm dứt, vô hiệu hóa thứ liên minh trục lợi giữa tiền và quyền.

Quyền phải chân chính, ngay thẳng, tiền phải dùng cho xã hội, ích quốc, lợi dân chứ không phải để mua danh, mua chức. Xã hội dân chủ, công bằng, văn minh khuyến khích mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh vì sự phồn vinh, giàu có của cá nhân và cộng đồng bằng lao động sáng tạo, hợp pháp nhưng phải nghiêm trị những hành vi kinh doanh chính trị, mua bán quyền chức.

- Đặt ra thể chế và chế tài mạnh để buộc tất cả mọi người giữ chức vụ phải chịu trách nhiệm về hành vi và bổn phận của mình. Dùng sức ép của dư luận xã hội, áp lực hối thúc của danh dự, liêm sỉ để mau chóng từ chức khi không còn xứng đáng, khi mắc lỗi, phạm tội. Có những quy định pháp lý sao cho không từ chức thì buộc phải từ chức và phải chịu xử lý kèm theo. Thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm phải đồng thời với bỏ phiếu bất tín nhiệm để miễn nhiệm, bãi nhiệm đúng lúc cần thiết. Không lạm dụng “lời xin lỗi”, biến nó thành hình thức, thành một thứ trống rỗng, giả dối, mị dân mà phải thực hành bằng sự sửa lỗi có hiệu quả, được đánh giá công khai bởi công luận.

- Năng động hóa các chính sách và quy định, không xơ cứng, máy móc để từ đó lại tạo ra những kẽ hở cho sự lợi dụng, trong đó có quy định chế độ tuổi làm việc, tuổi giữ và thôi chức vụ, tuổi nghỉ hưu. Cái cốt yếu là thực tài, thực đức, thực tín (có tín nhiệm thực sự).

- Đột phá về tổ chức chống tham nhũng đòi hỏi phải có một tổ chức độc lập do Quốc hội lập ra và cũng do Quốc hội điều phối. Tổ chức này phải được trao toàn quyền với một lực lượng tinh nhuệ, tài giỏi, công tâm, dám chịu trách nhiệm. Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng của Trung ương đặt ở cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng với những cơ quan tham mưu giúp việc để lãnh đạo ở tầm chiến lược là cần thiết. Song, tổ chức thực hiện chống tham nhũng muốn hoạt động và hành xử đúng luật, hợp hiến, hợp pháp thì phải là một tổ chức độc lập, do cơ quan lập pháp (Quốc hội) lập ra, chịu trách nhiệm trước toàn dân. Xóa bỏ kiểu lựa chọn cơ hội, thực dụng, “hạ cánh an toàn” của các công chức, quan chức. Phải làm cho tất cả mọi người ý thức rằng, đã tham nhũng thì phải bị trừng trị, dù có “hạ cánh” cũng không an toàn, vẫn đảm bảo cho dù tại vị hay đã thôi chức, đã nghỉ hưu vẫn phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động và hành vi của mình, nếu bị phát hiện tham nhũng, vẫn chịu xử lý theo luật pháp công minh khi có kết luận của điều tra, xét xử...

Bằng những biện pháp như thế, có thể làm cho cuộc chiến chống tham nhũng để bảo vệ dân, bảo vệ chế độ có kết quả. Nó sẽ thay đổi tình hình, chuyển hóa từ “vô dược” thành “hữu dược” để trị “tham nhũng bệnh” thời nay. 


(*) Giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia cao cấp, Hội đồng lý luận Trung ương.

(1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị Trung ương 4, khóa XI.

(2) Theo đánh giá của Tổ chức minh bạch quốc tế những năm gần đây, Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng và thuộc một trong những nước có điểm số thấp, đứng ở gần cuối bảng xếp hạng.

(3) Tình trạng nêu trên có thể được hình dung ở chỗ, có pháp luật nhưng không dựa vào luật, không tuân thủ pháp luật. Một khái niệm bị biến tướng trong đời thường là khái niệm “làm luật” (tức là đưa tiền) pháp chế có vẻ tích cực nhưng pháp trị thì rất tiêu cực.

(4) Xem: Tống Văn Công. Cha đẻ của tệ nạn phong bì. Báo Lao động, 27/11/2012.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: Tầng 11, 12 nhà A, Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007