Trong những năm gần đây, Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng “diễn biến hòa bình” là một trong bốn thách thức lớn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (ba thách thức nữa là tụt hậu ngày càng xa về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa và tham nhũng). “Diễn biến hòa bình” là một thủ đoạn thâm độc của các thế lực phản động trong và ngoài nước hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta bằng “cuộc chiến không tiếng súng”. Mục tiêu công kích của chúng nhằm vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa... làm cho nền kinh tế nước ta suy yếu, chính trị bất ổn, lòng dân hoang mang, dao động, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã lựa chọn. Một trong những tiêu điểm được chúng tập trung công kích là vấn đề dân chủ và việc thực hành dân chủ ở nước ta hiện nay.(*)Trong nhiều năm gần đây, một số nước tư bản phát triển phương Tây, đặc biệt là Mỹ đã tự cho mình cái quyền phán xét tình hình dân chủ ở tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Họ lớn tiếng cho rằng, ở Việt Nam hoàn toàn không có dân chủ hoặc nếu có thì chỉ là “dân chủ hình thức”, “dân chủ trình diễn”. Họ thổi phồng những hạn chế còn tồn tại, đồng thời che đậy những thành tựu về dân chủ đã và đang đạt được ở Việt Nam...
Vậy, nền dân chủ mà chúng ta đang xây dựng mang bản chất gì? Quan điểm của Đảng ta hiện nay về dân chủ như thế nào? Thực trạng bức tranh về dân chủ ở nước ta hiện nay ra sao và cần phải làm gì để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay? Đó là một số nội dung mà tác giả bài viết mong muốn góp phần làm rõ.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ (democracy) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, trong đó, demos có nghĩa là dân; kratos có nghĩa là quyền uy, sự cai trị. Như vậy, theo nghĩa gốc, dân chủ có nghĩa là quyền uy của nhân dân, là trạng thái tổ chức xã hội; trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Từ khi xã hội có sự phân hóa giai cấp và nhà nước ra đời thì quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ đó, dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi là “chính thể dân chủ” hay “nền dân chủ”.
Trong lịch sử các xã hội có giai cấp, đã và đang tồn tại ba nền dân chủ với bản chất và đặc trưng khác nhau, đó là dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, được thực thi bằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó. Đây là đặc trưng bản chất chính trị cho thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của toàn thể nhân dân lao động. Đây là đặc trưng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này được hoàn thiện dần cùng với quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Ba là, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào công việc của nhà nước. Mọi công dân đều được bầu cử, ứng cử vào các cơ quan nhà nước các cấp. V.I.Lênin khẳng định: “Với việc phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là với việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi công việc quản lý nhà nước”([1]).
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số giai cấp áp bức, bóc lột và phản động. Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau.
2. Sự vận dụng quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng ta
Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan điểm dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”(2). Quan điểm đó của Người đã được Đảng ta cụ thể hóa qua các kỳ đại hội và ngày càng được quán triệt sâu sắc, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình. Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội”(3).
Như vậy, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để khẳng định một số nội dung chính sau đây:(3)
Thứ nhất, chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một chế độ mang bản chất dân chủ. Trong chế độ đó, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”.
Thứ hai, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”(4). Trong Văn kiện này, giá trị “dân chủ” được nhấn mạnh và đưa lên trước giá trị “công bằng” và điều đó cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí quan trọng của việc thực hiện dân chủ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, coi đây là điều kiện tiên quyết, cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, thực hiện tốt dân chủ sẽ phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân với vai trò “chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử”.
Thứ ba, phải có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Việc xây dựng dân chủ không phải chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu mang tính hình thức, mà cần phải hoàn thiện cơ chế dân chủ thực sự cụ thể để thông qua đó người dân có thể thực hiện những quyền làm chủ của mình trên cơ sở của pháp luật.
Thứ tư, phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội. Dân chủ không đồng nghĩa với vô chính phủ. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, nhưng phải đảm bảo kỷ cương, phép nước. Có thể nói, chế độ dân chủ mà chúng ta đang xây dựng mang bản chất chính trị của giai cấp công nhân, do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó là Đảng Cộng sản, đó là một nền dân chủ mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc đúng như quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm về dân chủ và nhận thức về vai trò của dân chủ, mà điều quan trọng hơn là việc thực hành dân chủ, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến hành động. Để đạt được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định rõ: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(5). Phương thức thực hiện dân chủ là: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”(6). Dưới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân chính là chủ thể của quyền lực; đa số quần chúng nhân dân lao động có quyền và có điều kiện cần thiết để tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải đảm bảo cho đông đảo nhân dân tham gia vào việc tổ chức bộ máy nhà nước, vào việc quản lý các công việc của Nhà nước, quyết định các công việc trọng đại của đất nước; đồng thời, có cơ chế đảm bảo cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”(7).
Trong thực hành dân chủ, Đảng ta luôn nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước có cơ chế và các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất trật tự, an ninh, an toàn xã hội.
3. Thực trạng việc thực hành dân chủ ở nước ta hiện nay
3.1. Thành tựu
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân ta bị đắm chìm trong ách áp bức của bọn phong kiến và thực dân, “một cổ hai tròng”, bị tước đoạt đến “trần trụi” quyền con người và vì vậy, “dân chủ” là một cái gì đó thật xa vời đối với mỗi người dân Việt Nam. Cách mạng tháng Tám thành công đã thật sự làm thay đổi địa vị của dân tộc Việt Nam nói chung và thân phận của mỗi người dân Việt Nam nói riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử, người dân Việt Nam đã được làm chủ đất nước và thực hiện quyền làm chủ thông qua việc tự tay bỏ lá phiếu bầu ra những đại biểu tham gia Quốc hội. Đây là một dấu mốc quan trọng trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ đó đến nay, nền dân chủ ở Việt Nam ngày càng được củng cố, hoàn thiện và phát triển, đặc biệt từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước đến nay. Đánh giá về những thành tựu trong việc thực hành dân chủ ở nước ta hiện nay, Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân... Các cấp ủy đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng”(8).
Một trong những chiêu bài của các thế lực thù địch và phản động là cho rằng, ở Việt Nam hiện nay không có dân chủ hoặc chỉ là dân chủ hình thức. Theo chúng tôi, nhận định đó hoàn toàn là sự xuyên tạc, bịa đặt về tình hình dân chủ ở Việt Nam. Bằng chứng chứng minh điều đó chính là quyền làm chủ của người dân Việt Nam đang được thực thi ngày càng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, tư tưởng.(8)
- Về chính trị: Người dân Việt Nam đã và đang được Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ về chính trị, đó là quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền giám sát, phản biện xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền được tham gia đóng góp ý kiến vào các công việc trọng đại của đất nước... Tất cả các quyền dân chủ này đều được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Chúng ta đang từng bước xây dựng và hoàn thiện “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, người dân tham gia ngày càng nhiều, càng sâu vào các công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua hai hình thức “dân chủ trực tiếp” và “dân chủ đại diện”. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, cơ quan đó là do nhân dân bầu ra, đại biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
Ý kiến của người dân đang ngày càng được xem trọng, các cuộc tiếp xúc cử tri ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng, các cuộc chất vấn của đại biểu Quốc hội với những người đứng đầu các cơ quan nhà nước ngày càng được chú trọng và thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân thông qua các buổi truyền hình, đối thoại trực tiếp, quy chế dân chủ ở cơ sở đang ngày càng được coi trọng... Gần đây nhất, tại Hội nghị Trung ương 4 và Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, Đảng ta đã đặt ra yêu cầu thực hiện nghiêm túc đợt kiểm điểm phê và tự phê trong các tổ chức đảng và bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, đồng thời thực hiện việc “lấy phiếu tín nhiệm” và “bỏ phiếu tín nhiệm” đối với những chức danh được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Đây là một biểu hiện rõ nét chứng tỏ quyền làm chủ của nhân dân đang ngày càng được coi trọng và phát huy nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, không thể nói hiện nay người dân Việt Nam không được thực thi quyền dân chủ về chính trị được.
- Về kinh tế: Trong thời kỳ bao cấp, do mắc một số sai lầm mang tính chủ quan, duy ý chí về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nên một số chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước đã làm hạn chế quyền làm chủ về kinh tế của nhân dân. Khi đó, quyền làm chủ của người dân về tư liệu sản xuất còn mang tính hình thức dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, tư liệu sản xuất về danh nghĩa là của toàn dân nhưng thực tế người dân lại không được làm chủ thực sự những tư liệu sản xuất đó.
Tuy nhiên, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã đưa lại cho người dân ngày càng nhiều quyền dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, người dân Việt Nam được tự do lựa chọn tham gia vào các thành phần kinh tế phù hợp với điều kiện của bản thân, tự do sản xuất và kinh doanh theo pháp luật. Người dân, một mặt, được làm chủ những tư liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà nước thông qua người đại diện của mình; mặt khác, được Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp những tư liệu sản xuất và tài sản từ thu nhập chính đáng của cá nhân. Nhà nước thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo lao động làm hình thức cơ bản; nhờ vậy, đã khắc phục dần sự bất bình đẳng trong phân phối sản phẩm xã hội. Người dân được Nhà nước tạo mọi điều kiện về pháp lý để làm giàu hợp pháp, được hỗ trợ về vốn, khoa học - công nghệ, thị trường, đào tạo nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, chú trọng giải quyết vấn đề an sinh xã hội, tích cực trong xóa đói giảm nghèo... Vì vậy, không thể nói người dân Việt Nam không có quyền dân chủ về kinh tế được.
- Về văn hóa, tư tưởng: Trước đổi mới, cũng đã có lúc Đảng và Nhà nước ta đã mắc phải một số sai lầm, nóng vội trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nên đã vi phạm quyền làm chủ của nhân dân về văn hóa, tư tưởng. Chẳng hạn, thái độ ứng xử mang tính cực đoan đối với tôn giáo, tín ngưỡng, áp đặt “chủ nghĩa vô thần”, cực đoan trong hành xử đối với một số xu hướng văn hóa, lối sống, thẩm mỹ mang tính khác biệt với các giá trị truyền thống... Điều đó đã ảnh hưởng không tốt đến việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã gặp phải sự phản ứng trái chiều từ phía người dân. Từ khi đổi mới đến nay, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thật sự được coi trọng và đã có những thay đổi căn bản. Người dân Việt Nam hiện nay được bảo đảm những quyền tự do căn bản về văn hóa, tư tưởng, như tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng; tự do ngôn luận, tự do báo chí; tự do hội họp, tự do đi lại, học hành, chữa bệnh, tự do sinh hoạt văn hóa, tinh thần lành mạnh; tự do phát huy những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình... Đây chính là cơ sở để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Như vậy, không thể nói người dân Việt Nam hiện nay không được thực thi quyền dân chủ về văn hóa, tư tưởng được.
Tựu trung lại, trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, và xã hội, người dân Việt Nam đang được đảm bảo và thực thi quyền làm chủ của mình. Chính điều đó đã và đang phát huy cao độ sức mạnh nội sinh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm nắm lấy thời cơ, vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập, xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, có thể khẳng định rằng những ý kiến coi ở Việt Nam hiện nay không có dân chủ hoặc chỉ là dân chủ hình thức... là đánh giá thiển cận, sai lầm và thiếu thiện chí.
3.2. Một số tồn tại, hạn chế
Tuy đạt được một số thành tựu quan trọng như đã nêu ở trên, nhưng việc thực hành dân chủ ở nước ta hiện vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Về mặt này, Đảng ta cũng đã thẳng thắn thừa nhận: “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội”(9). Nguyên nhân chủ yếu là do ở một số nơi, các cấp ủy đảng, chính quyền còn xem nhẹ vai trò của việc thực hành dân chủ, nên công tác chỉ đạo chưa sâu sát, còn đối phó, mang tính hình thức; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở; người dân thiếu hiểu biết pháp luật và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở nên chưa chủ động, tích cực tham gia vào quá trình này. Cụ thể:
- Hiện tượng tham nhũng khá phổ biến hiện nay đang là một vấn nạn nhức nhối, một mặt, làm thất thoát tài sản của nhân dân; mặt khác, còn làm suy yếu bộ máy nhà nước và đặc biệt là làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thực chất, tham nhũng cũng chính là một biểu hiện của vi phạm dân chủ, lợi dụng quyền lực mà nhân dân giao phó để bòn rút tiền của nhân dân. Vì lợi ích cá nhân mà chà đạp lên lợi ích của nhân dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa dân..., đó là cách ứng xử của một bộ phận cán bộ lãnh đạo suy thoái, biến chất hiện nay. Điều này làm cho một số người dân không khỏi hoang mang, dao động, hoài nghi việc xây dựng Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, nhất là khi Đảng ta đã nhiều lần coi chống tham nhũng là nhiệm vụ cấp bách nhưng tình hình vẫn chưa mấy khả quan, các vụ tham nhũng vẫn chưa có dấu hiệu suy giảm.
- Một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa phù hợp với nguyện vọng của đông đảo người dân lao động, một số chính sách đưa ra nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc, cơ chế giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật còn lỏng lẻo. Vẫn còn biểu hiện của cơ chế “xin – cho”, bao cấp, độc quyền, lợi ích nhóm... làm tổn hại đến lợi ích của đông đảo người dân. Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân còn thấp, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Khoảng cách chênh lệch về mức sống, mức hưởng thụ các phúc lợi xã hội, trình độ văn hóa... của các tầng lớp dân cư ngày càng xa; các chính sách an sinh xã hội chưa thực sự thỏa đáng, hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội vẫn còn tồn tại. Đây cũng là một dấu hiệu của việc thực thi dân chủ chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Trình độ văn hóa, hiểu biết về chính sách, pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế nên họ không quan tâm hoặc không đủ khả năng thực hiện quyền làm chủ của mình. Từ đó, trên thực tế đã và đang diễn ra hai thái cực: Một là, một bộ phận nhân dân thờ ơ với quyền dân chủ, không ý thức đầy đủ giá trị của nó, không hiểu được rằng dân chủ vừa là quyền vừa là trách nhiệm của công dân, thậm chí họ tự đánh mất quyền làm chủ xã hội của mình. Chẳng hạn, khi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, không ít người cầm bút gạch bừa, thậm chí nhiều người còn nhờ người khác đi bỏ phiếu hộ một cách vô trách nhiệm. Hai là, một bộ phận khác lại hiểu sai về dân chủ, đồng nhất dân chủ với “vô chính phủ”, dân chủ có nghĩa là muốn làm gì thì làm. Vì vậy, khi những hành vi vi phạm pháp luật của họ bị xử lý thì liền cho rằng Nhà nước đã vi phạm quyền dân chủ của họ.
- Trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam. Những người Việt Nam có lòng yêu nước chân chính đều khẳng định vai trò không thể thay thế của Đảng trong tiến trình lịch sử của dân tộc cũng như trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các lực lượng chống phá thì lại không ngớt công kích và cho rằng, nhất nguyên về chính trị là độc đoán, là chuyên quyền, là vi phạm dân chủ; rằng, cần phải đa nguyên, đa đảng để có đảng đối lập làm đối trọng với Đảng Cộng sản, như vậy mới thực sự “dân chủ”. Trên thực tế, các tổ chức phản động trong và ngoài nước đã ngấm ngầm thành lập những tổ chức đảng nhằm hạn chế vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong khi đó, một bộ phận nhân dân do trình độ hiểu biết còn hạn chế hoặc do những nguyên nhân khác nhau đã rơi vào bẫy của các thế lực phản động, ủng hộ chế độ đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam làm phức tạp thêm tình hình an ninh, chính trị trong nước. Mặt khác, một số hạn chế trong công tác xây dựng Đảng, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên nếu chậm được khắc phục cũng sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây thực sự là thách thức không nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Quan điểm của Đảng về phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở đánh giá khách quan, thẳng thắn chỉ ra những thành tựu và hạn chế trong việc thực hành dân chủ, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã đề ra phương hướng và những giải pháp cụ thể để tiếp tục xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.
Về phương hướng, Đảng ta đã xác định cần phải “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”(10).
Về nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, thứ nhất, “cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân”(11). Thứ hai, “nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân”(12). Thứ ba, “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp”(13) theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thứ tư, “phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức”(14). Việc phát huy dân chủ đòi hỏi phải đi liền với việc đề cao trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội. Thứ năm, thực hành dân chủ, xét đến cùng, là nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng ta đã nhấn mạnh cần “quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết”(15).
Có thể nói, xây dựng, hoàn thiện và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân ta. Về phía mình, mỗi một người dân cần nâng cao sự hiểu biết về chính sách, pháp luật và có ý thức phát huy quyền làm chủ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, vi phạm dân chủ ở cơ sở góp phần xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra. Đồng thời, luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc về tình hình dân chủ ở nước ta hiện nay. q