Mở đầu
Trách nhiệm của nho sĩ, của người quân tử đối với nhân quần, hay nói cách khác, trách nhiệm xã hội của người theo đạo Nho là vấn đề được coi là mặc định trong nhận thức của tầng lớp trí thức Nho học. Quan niệm này đã được xác lập tương đối hoàn chỉnh trong Nho giáo nguyên thuỷ, còn gọi là Khổng giáo, và trở thành một vấn đề cốt lõi của đạo đức Nho giáo trong suốt lịch sử phát triển của nó. Tuy nhiên, việc khảo sát lại quan niệm của Nho giáo về trách nhiệm là một việc có ý nghĩa trong bối cảnh thiếu vắng một quan niệm đầy đủ về trách nhiệm và trách nhiệm xã hội hiện nay.
Luận về trách nhiệm của Nho giáo trong lịch sử có thể theo hai hướng. Hướng thứ nhất khảo sát Nho giáo ở vai trò, trách nhiệm thúc đẩy hay kìm hãm sự vận động của xã hội. Hướng thứ hai nghiên cứu bản thân Nho giáo đã đề cập, triển khai, cổ suý vấn đề trách nhiệm và thực thi trách nhiệm như thế nào. Tuy nhiên, hướng thứ hai, về thực chất, cũng nhằm làm sáng tỏ các vấn đề của hướng thứ nhất, mà đến nay vẫn tồn tại hai quan điểm đánh giá cơ bản: Hoặc cho rằng Nho giáo phải chịu trách nhiệm về sự ỳ trệ, lạc hậu của xã hội phương Đông thời kỳ Cận đại, hoặc cho rằng Nho giáo đã góp phần tạo dựng một khuôn khổ văn hoá vững chắc giúp cho xã hội vận động theo hướng ổn định và hài hoà. Điều thú vị là dường như mỗi quan điểm đều tìm thấy những bằng chứng đầy thuyết phục trong hiện thực phát triển của Nho giáo qua lịch sử.(*)
Bài viết này tìm kiếm một cách tiếp cận Nho giáo qua quan niệm trách nhiệm, từ đó góp một ý kiến về trách nhiệm của Nho giáo trong lịch sử phát triển của các nước Á Đông.
Khuôn khổ quan niệm của Nho giáo về trách nhiệm, trách nhiệm xã hội
Không nghi ngờ gì, Nho giáo là một học thuyết dạy về trách nhiệm và bổn phận của con người. Những tầng bậc trách nhiệm của con người được Nho giáo xác định rất rõ ràng.
Nho giáo tuyên bố tôn chỉ đào tạo nên những con người tự nhận trách nhiệm tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ bằng nền giáo dục đại học: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”(1) (Cái học lớn là con đường làm sáng tỏ cái đức sáng của thánh nhân, là làm cho dân đổi mới theo đức sáng đó và để đạt tới mức chí thiện). Những lời dạy của Khổng Tử và các học trò trong bộ Tứ thư, dưới nhiều nội dung và hình thức khác nhau, hoàn cảnh khác nhau đều nhằm tới mục tiêu thực hiện trách nhiệm này. Có thể xem xét quan niệm về trách nhiệm của Nho giáo trên bốn chiều cạnh sau:
Thứ nhất, đối tượng đảm nhận các trách nhiệm mà Nho giáo tuyên ngôn không phải là dân chúng mà là những người học đạo, cụ thể là đạo Nho. Những người học đạo ở đây được mặc định là phái nam, là các đấng tu mi nam tử, giới nữ tuyệt nhiên không được tính tới. Nhưng, ngay cả trong số những người theo học đạo Nho, không phải ai cũng được thừa nhận là đối tượng xứng đáng đảm nhận trách nhiệm mà Nho giáo tự nhận. Khi Tử Cống hỏi làm sao để xứng đáng gọi là kẻ sĩ, tức là người học Nho, đọc sách thánh hiền, Khổng Tử đã đưa ra ba bậc từ cao xuống thấp của kẻ sĩ. Bậc thứ nhất là những người biết sỉ hổ, tránh được việc trái lễ nghĩa, không trái mệnh vua. Bậc thứ hai là những người được trong họ khen là hiếu, ngoài làng khen là đễ. Bậc thứ ba là những người biết giữ lời, làm việc quả quyết, khiến kẻ tiểu nhân e ngại. Với những người có học ra làm quan cai trị mà không có những đức hạnh đã kể trong ba hạng trên, Khổng Tử không tính vào hàng kẻ sĩ(2). Như vậy, chỉ có kẻ sĩ, người có đức mới là những người nhận lãnh trách nhiệm mà Nho giáo chủ xướng: “Quân tử chi ư thiên hạ giã, vô thích giã, vô mịch giã, nghĩa chi dữ tỷ”(3) (Bậc quân tử làm việc cho thiên hạ, không việc gì cố ý làm, không việc gì cố ý bỏ, hễ hợp nghĩa thì làm).
Thứ hai, những nội dung cụ thể của trách nhiệm được Nho giáo xác định rõ, bao gồm bốn phạm vi thực hiện: Trách nhiệm đối với chính bản thân mình, trách nhiệm đối với gia đình, trách nhiệm đối với quốc gia và trách nhiệm đối với xã hội. Trong đó, trách nhiệm làm cho thiên hạ thái bình, trị an (trách nhiệm xã hội) được coi là trách nhiệm cuối cùng, to lớn nhất và cao cả nhất mà người học đạo phải tự nhận thức và lấy làm lý tưởng sống của mình.
Trách nhiệm đối với bản thân là sự tự chịu trách nhiệm đối với chính bản thân mình. Nội dung của trách nhiệm này bao gồm ba khía cạnh là bảo vệ sự toàn vẹn thân thể, tu dưỡng tâm trí để làm sáng tỏ đức lớn của thánh nhân và lập thân thành nhân (trở thành người có đức có tài được xã hội thừa nhận). Đây cũng là những nội dung chính trong đạo hiếu của Nho giáo. Trên góc độ đạo hiếu, trách nhiệm đối với bản thân chính là phần quan trọng trong trách nhiệm thực hiện đạo hiếu của kẻ sĩ. Nho giáo coi việc bảo vệ tính mạng, sự an toàn thân thể là việc phải hết sức cẩn trọng, “phải nơm nớp, chăm chắm như đi xuống vực sâu, như đi trên băng mỏng”(4); bởi vì, thân thể là của cha mẹ ban cho, không thể tuỳ tiện làm hư hại, khiến cha mẹ đau lòng. Việc tu tâm dưỡng tính của kẻ sĩ theo con đường cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân chính là con đường học Đạo theo từng bước đi từ ngoại cảnh vào nội tâm, từ thấp đến cao, từ nông tới sâu. Kẻ sĩ phải có trách nhiệm tu được thân để trang bị cho mình đầy đủ các tri thức và kinh nghiệm, để rèn luyện các phẩm chất nhân, trí, dũng để ý thức được đầy đủ trách nhiệm, bổn phận của mình đối với bản thân, gia đình, xã hội.
Trách nhiệm đối với gia đình, gia tộc là một nội dung quan trọng và được Nho giáo quan tâm hàng đầu. Vì thế, việc xây dựng, duy trì, giữ gìn gia tộc, dòng họ yên ổn, có trật tự lễ giáo, ngày càng đông con nhiều cháu và giàu có là thuộc trách nhiệm của người gia trưởng, của người kẻ sĩ.
Trách nhiệm đối với quốc gia là trách nhiệm trị quốc. Việc trị quốc của kẻ sĩ cốt nhất là đảm bảo được ba điều: Thứ, phú, giáo (làm cho dân đông lên, làm cho dân giàu có lên và dạy dỗ cho họ có lễ nghĩa)(5). Nho giáo coi gia tộc là tổ chức nền tảng của quốc gia. Quốc gia chính là gia đình, gia tộc mở rộng. Cho nên, trách nhiệm tề gia gắn liền với trách nhiệm trị quốc. Khi chứng tỏ được khả năng tề gia, người quân tử, kẻ sĩ có khả năng thực hiện trách nhiệm đối với quốc gia là “trị quốc”. Tề gia, trị quốc không ra ngoài việc thực hiện chính danh, sao cho “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”(6) (vua làm tròn chức trách của vua, tôi làm tròn phận sự của tôi, cha làm tròn chức trách của cha, con làm tròn phận sự của con).
Trách nhiệm “bình thiên hạ”, làm cho toàn xã hội thái bình (hoà bình và phồn vinh) được coi là trách nhiệm to lớn nhất, cao cả nhất mà Nho giáo đặt vào kẻ sĩ. Trách nhiệm này bao gồm cả những mục tiêu gần và xa, vừa có tính cụ thể vừa có tính lý tưởng. Tử Cống hỏi Khổng Tử rằng nếu có người thi ân bố đức khắp cả dân gian, lại hay cứu tế cho đại chúng thì có thể gọi người ấy là người nhân không? Khổng Tử khẳng định: “Hà sự ư nhân? Tất giã Thánh hồ. Nghiêu, Thuấn kỳ do bệnh chư!”(7) (Sao chỉ gọi là người nhân thôi? Đó phải là bậc thánh. Vua Nghiêu, vua Thuấn cũng khó làm xong những việc đó). Đây chính là trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội được mặc định là tôn chỉ, mục đích của toàn bộ hệ thống Nho giáo, được đặt ra ngay từ khi lập thuyết và quán xuyến suốt lịch sử tồn tại của Nho giáo.
Thứ ba, Nho giáo xây dựng phương pháp thực hiện trách nhiệm bằng con đường đạo đức. Để thực hiện trách nhiệm xã hội, Khổng Tử nói rõ cách thức thực hiện, đó là “người nhân hễ muốn tự lập lấy mình thì cũng lo thành lập cho người; hễ muốn cho mình thông đạt thì cũng lo làm cho người thông đạt; hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người xung quanh mình thế ấy. Đó là những phương pháp phải thi hành để trở nên người nhân vậy”(8). Dựa trên tôn chỉ, mục đích coi con đường đức trị là con đường đúng đắn nhất đưa xã hội tới thái bình, thịnh trị, Nho giáo khẳng định trách nhiệm xã hội của kẻ sĩ là hoàn toàn tự nguyện, là vô cùng nặng nề và khó khăn. Nho giáo không ảo tưởng về những khó khăn trong việc nhận và thực hiện trách nhiệm xã hội của kẻ sĩ và xác định rõ: “Kẻ sĩ cần phải có chí khí rộng lớn và cương nghị. Là vì gánh thì nặng mà đường thì xa. Đức nhân kia là cái trách nhậm mà mình phải gánh lấy, há không nặng sao? Đã làm điều nhân thì mình phải làm cho đến chết mới thôi, như vậy con đường chẳng là xa sao?”(9). Như vậy, theo Nho giáo, người có đức nhân - kẻ sĩ - là nhân tố căn cốt thực hiện trách nhiệm xã hội.
Thứ tư, Nho giáo đưa ra các điều kiện đảm bảo việc thực thi trách nhiệm dựa trên đạo đức và sự tự nguyện là sự chính danh và môi trường xã hội an toàn. Bản chất của phương pháp đạo đức để thực hiện trách nhiệm mà Nho giáo đề xướng hoàn toàn loại bỏ phương pháp đấu tranh. Do vậy, hai điều kiện căn bản nhất mà Khổng Tử đưa ra để cá nhân có thể thực thi trách nhiệm xã hội là thứ nhất, phải chính danh: “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính” (nếu không ở một chức vị nào đó thì không được mưu tính việc chính trị); thứ hai, phải có môi trường đảm bảo: “Ngụy bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc hiện, thiên hạ vô đạo tắc ẩn”(10) (nước nguy chớ nên vào, nước loạn chớ nên ở, nước có đạo thì nên ra hành đạo mà nước vô đạo thì nên đi ở ẩn). Các điều kiện đảm bảo thực thi trách nhiệm của kẻ sĩ mà Nho giáo đưa ra dường như mâu thuẫn với tuyên xưng của Nho giáo về trách nhiệm. Tuy nhiên, các điều kiện này lại phù hợp với phương pháp đạo đức tự nguyện và những nội dung trách nhiệm của kẻ sĩ, đặc biệt là phù hợp với giai đoạn lịch sử loạn lạc thời Xuân thu - Chiến quốc, khi Nho giáo ra đời, do vậy, đã tạo nên một khuôn khổ quan niệm nhất quán của Nho giáo về trách nhiệm.
Tóm lại, quan niệm của Nho giáo về trách nhiệm, trách nhiệm xã hội đã bỏ qua phương diện lợi ích và pháp luật, đồng thời bị giới hạn ở phương diện đạo đức và nhận thức một chiều từ cá nhân tới xã hội. Mặt mạnh trong quan niệm của Nho giáo về trách nhiệm đã được phát huy tối đa suốt lịch sử Nho giáo, tạo nên một hệ giá trị đạo đức đơn tuyến về con người và xã hội xét trên phương diện trách nhiệm. Đặc biệt, Nho giáo là học thuyết gặt hái thành công lâu dài trong việc đào tạo ra những lớp trí thức Nho học đầy tinh thần “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Thêm nữa, điểm mạnh này cũng tạo nên tính lý tưởng và sức sống lâu dài của quan niệm Nho giáo về trách nhiệm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, quan niệm này ngày càng trở nên bất cập trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện đại. Yêu cầu bổ sung, giải thích mới, thậm chí kết hợp các nội dung, cách thức thực hiện và điều kiện thực thi trách nhiệm theo Nho giáo với các quan niệm khác về trách nhiệm xã hội là điều tất yếu nhằm phát triển lý luận về trách nhiệm xã hội hiện nay.
Sự mở rộng quan niệm của Nho giáo về trách nhiệm xã hội ở Phan Bội Châu
Phan Bội Châu (1867 – 1940) là nhà dân tộc chủ nghĩa nổi tiếng nhất trong phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX. Ông cũng là một nhà nho điển hình cho giới trí thức Nho học thời kỳ này có quan niệm sâu sắc về trách nhiệm xã hội của nho sĩ và toàn tâm toàn ý cả cuộc đời thực hiện trách nhiệm xã hội đó. Hơn nữa, ông là người có công mở rộng quan niệm truyền thống về trách nhiệm xã hội của nho sĩ trên một bình diện mới khi kết nối và hiện đại hoá nó với yêu cầu của thời đại.
Ông kế thừa quan niệm Nho giáo về trách nhiệm của người học Đạo thánh hiền, cũng như sự tự ý thức về trách nhiệm, vai trò to lớn của các kẻ sĩ Việt: “Vũ trụ chức phận nội, Đấng trượng phu một túi kinh luân. Thượng vị đức hạ vị dân, Sắp hai chữ quân thần mà gánh vác”(11) (Kẻ sĩ với tri thức, kinh nghiệm, đạo đức và tài năng chính trị có chức phận cao cả trong vũ trụ là làm tròn đạo vua tôi để trên thì làm sáng tỏ đức lớn của trời đất, dưới thì đáp ứng lợi ích an dân).
Trước cảnh quốc gia suy vong, từ khi còn rất trẻ, ông đã dùng ngòi bút của mình tuyên truyền, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân thực hiện bổn phận, trách nhiệm của mình đối với quốc gia, xã tắc. Khi các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị đàn áp và thất bại, chí khí dân tộc tạm thời lắng xuống, Phan Bội Châu kêu gọi kẻ sĩ thực hiện trách nhiệm tu thân qua việc dùi mài kinh sử, trau dồi trí tuệ, đợi thời hành động: “Thép tôi trăm lần mới thành, gươm mài nghìn vàng mới sắc”, “Nhất là khi trong túi tạm dấu hình, tuy tối tăm mà vẫn sáng quắc”(12). Ông kêu gọi trách nhiệm của kẻ sĩ lúc này là hãy giữ vững danh tiết, chí khí “kì vọng bình sinh làm thịnh cho đời”(13).
Quan niệm về trách nhiệm hiếu đễ đối với gia đình của Nho giáo đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam là một cản trở lớn cho Phan Bội Châu trong việc vận động thanh niên tự nguyện ra đi làm cách mạng. Ông đã tìm cách lý giải mới về chữ hiếu để giải thoát các nho sĩ trẻ khỏi ràng buộc trong nhận thức bằng việc gắn nghĩa vụ làm con với nghĩa vụ làm người, nghĩa vụ làm dân: “Nhưng mà bổn phận làm con, còn có ở trên nghĩa vụ ấy là nghĩa vụ làm người, có khi phải đi ra làm việc quốc gia, có khi phải đi ra làm việc xã hội, nghĩa vụ làm người còn nhiều lắm, thời người làm con đó, có lẽ đóng cửa ở trong nhà mãi được sao? Nên Thánh nhân cũng thường nói rằng “Sĩ nhi hoài cư, bất túc sĩ vi sĩ hĩ”... “du tất hữu phương”(14).
Với uy tín sâu rộng trong xã hội và ngòi bút sắc sảo, Phan Bội Châu đã thuyết phục nhân dân có lối nhận thức mới về sự gắn bó trách nhiệm của người con trong gia đình với trách nhiệm người dân trong quốc gia xã hội, thậm chí đặt trách nhiệm hiếu đễ xuống dưới trách nhiệm ái quốc. Đặc biệt, trong lúc quốc gia lâm nguy thì nhận thức này đã giúp giải quyết những vướng mắc, băn khoăn giữa bổn phận làm con và trách nhiệm xã hội. Việc hàng trăm thanh niên ưu tú quyết tâm đi theo Phan Bội Châu sang Nhật làm cách mạng, bất chấp mọi hiểm nguy, gian khó cũng như lực lượng đông đảo những người ủng hộ tiền của cho phong trào Đông Du đã chứng tỏ sự thành công của ông trong việc truyền bá và kêu gọi thực hiện trách nhiệm xã hội của nhân dân.
Quan niệm trách nhiệm của Nho giáo truyền thống chỉ định ra trách nhiệm xã hội cho một tầng lớp rất ít ỏi và được coi là tầng lớp tinh hoa nhất trong xã hội, đó là kẻ sĩ. Nho giáo không đặt việc nộp thuế và các công việc phu phen tạp dịch, đóng góp xã hội khác là trách nhiệm mà là bổn phận đương nhiên của người dân. Phan Bội Châu trong thời đại của mình đã nhận thức được vai trò của mọi tầng lớp nhân dân đối với vận mệnh đất nước và chủ trương kêu gọi trách nhiệm của tất cả mọi người. Mặc dù ông vẫn đặt ra trách nhiệm của kẻ sĩ là lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng làm cách mạng, nhưng đồng thời, ông cũng rất coi trọng sức mạnh của nhân dân, coi việc chấn dân khí là việc cốt yếu hàng đầu để chấn hưng đất nước(15). Ông cho rằng, trách nhiệm “suy tấm lòng (cầu thần) để làm tấm lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, cứu nhân dân, giết kẻ thù”(16) là của tất cả mọi người dân mất nước.
Một phát triển quan trọng trong quan niệm về trách nhiệm của Phan Bội Châu là ông còn yêu cầu trách nhiệm của người làm vua. Nếu trong Khổng học, trách nhiệm của vua là phải hành xử theo đúng danh vị người làm vua thì ở Phan Bội Châu, ông đòi hỏi người làm vua phải dựa vào lễ(17) để xử thế. Người làm vua không ỷ việc mình có quyền thế mà phải dựa vào lẽ phải, vào lễ để sai khiến bầy tôi. Bầy tôi thờ phụng vua không kiêng nể nơi quyền thế mà chỉ duy ở việc hết nghĩa vụ lo gánh vác việc nước của mình, cốt ở lòng ngay thẳng mà thờ vua, đó là trung. “Nếu quân mà vô lễ thời thần cũng bất trung, đó là lẽ đương nhiên”(18). Với sự giải thích của Phan Bội Châu về trách nhiệm của người làm vua như vậy, kẻ sĩ, cụ thể là các nhà nho Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX đã được giải phóng khỏi quan niệm cũ về lòng trung thành tuyệt đối, một chiều đối với nhà vua, quan niệm mà rất dễ dẫn dắt kẻ sĩ tới chỗ ngu trung trong việc thực hiện trách nhiệm. Ở đây, chúng ta thấy Phan Bội Châu đã lấy lợi ích của quốc gia, xã hội làm tiêu chuẩn và mục đích của trách nhiệm xã hội. Quan điểm “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” đã được ông lấy làm nguyên tắc vận động, cổ vũ, khuyến khích nhân dân hành động, thực hiện trách nhiệm, bổn phận đối với Tổ quốc đang lâm nguy.(15)
Quan điểm của Phan Bội Châu đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của cá nhân, kể cả lợi ích của nhà vua trong thực thi trách nhiệm xã hội đã đem lại bước đột phá trong nhận thức về trách nhiệm của Nho giáo Việt Nam thời Cận hiện đại. Sự truyền bá nhận thức này sâu rộng trong nhân dân kết hợp với uy tín cá nhân trong việc hiến dâng cả đời để thực thi trọng trách cứu nước của Phan Bội Châu đã thực sự tạo ra một bước chuyển lý luận của Nho giáo Việt Nam trong quan niệm về trách nhiệm. Cùng với việc đề xướng khái niệm “quốc dân” có vai trò như là khái niệm trung chuyển từ “thần dân” sang “công dân”, cùng với việc mở rộng phạm vi đối tượng thực thi trách nhiệm xã hội tới toàn thể dân chúng thuộc mọi giai tầng, cùng với việc đặt lợi ích quốc gia lên trên mọi lợi ích khác trong xác định trách nhiệm của mỗi người trong xã hội, Phan Bội Châu đã đặt nền tảng cho sự thiết lập lý luận Nho giáo mới về trách nhiệm. Lý luận này bao gồm những điểm chính sau:
1- Sự kế thừa những nội dung chính về trách nhiệm trong học thuyết Nho giáo như trách nhiệm đối với cá nhân, trách nhiệm đối với gia đình, trách nhiệm đối với quốc gia và trách nhiệm đối với xã hội.
2- Sự đề cao một số nội dung về trách nhiệm phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và thời đại như đề cao trách nhiệm tu thân đợi thời, đề cao tuyệt đối trách nhiệm đối với quốc gia, lấy lợi ích quốc gia làm tiêu chuẩn tối cao đánh giá việc thực hiện trách nhiệm.
3- Mở rộng, bổ sung, phát triển khuôn khổ quan niệm trách nhiệm, tạo tiền đề tiếp cận tới quan niệm hiện đại về trách nhiệm, như mở rộng phạm vi đối tượng thực hiện trách nhiệm đối với quốc gia tới mọi giai tầng xã hội, đưa ra những trách nhiệm gắn liền với khái niệm “quốc dân”, với tinh thần dân tộc.
Quan niệm về trách nhiệm của Phan Bội Châu đã đạt được hiệu ứng xã hội sâu rộng khi khơi dậy tinh thần trách nhiệm và lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân thực hiện trách nhiệm cứu nước trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Quan niệm này của ông đã tạo thành bước trung gian từ nhận thức truyền thống về trách nhiệm của nho sĩ tới nhận thức hiện đại về trách nhiệm của công dân.
Kết luận
Quan niệm của Nho giáo về trách nhiệm đã chi phối lâu dài đời sống chính trị - đạo đức của các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo cho tới thời Cận hiện đại và hiện nay vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng ở một mức độ nhất định. Quan niệm này không còn đáp ứng yêu cầu của xã hội Việt Nam hiện đại về vấn đề trách nhiệm trên phương diện nhận thức kể cả quan niệm của Phan Bội Châu. Tuy nhiên, để xây dựng một nhận thức hiện đại về trách nhiệm, trách nhiệm xã hội ở Việt Nam hiện nay, ngoài việc tiếp cận tới quan niệm hiện đại về trách nhiệm xã hội, là quan niệm có tính toàn cầu, bao gồm mọi đối tượng cơ quan, đoàn thể chính phủ và phi chính phủ, ở các tầng bậc từ doanh nghiệp tới quốc gia đều phải cam kết thực hiện vì sự phát triển bền vững, thì việc kế thừa và phát huy những ưu thế trong vốn văn hoá truyền thống về trách nhiệm của Nho giáo, mà Phan Bội Châu là một ví dụ, là có ý nghĩa hỗ trợ rất lớn. q