Tìm kiếm

TƯ DUY BIỆN CHỨNG TRONG SỰ KẾT HỢP GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA

25/01/2024

Tạp chí Triết học, số 6, năm 2013

LÊ HỮU NGHĨA (*)

Trong bài viết này tác giả đã luận giải để làm rõ tư duy biện chứng trong sự kết hợp giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những thuộc tính bản chất, những yếu tố nội tại, gắn bó hữu cơ trong mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta. Định hướng xã hội chủ nghĩa phải được quán triệt khi vận hành các nguyên tắc của thị trường; đồng thời, việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa không được tách rời các quy luật của thị trường.

1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sáng tạo lý luận lớn của Đảng ta trong quá trình đổi mới.

Trước đổi mới, Việt Nam đã áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp theo mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong mô hình này sở hữu tư nhân và cá nhân bị coi nhẹ, xây dựng nền kinh tế hầu như khép kín, không coi trọng vai trò các ngành dịch vụ, không chú trọng phát triển quan hệ hàng hóa – tiền tệ và các yếu tố thị trường trong nền kinh tế. Mô hình này không phù hợp với điều kiện thực tiễn mới khi đất nước đã chuyển sang hòa bình. Và việc kéo dài nó đã khiến nền kinh tế - xã hội của đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Thực tế đó đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế mà điểm then chốt là tư duy về kinh tế thị trường.*

Trong thời kỳ đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển. Nếu Đại hội VI mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì Đại hội VII và  Đại hội VIII đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội IX, một bước tiến trong nhận thức của Đảng ta là đã xác định “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là bước đột phá về lý luận của Đảng ta.

Kế thừa Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một bước quan trọng nội dung cơ bản việc nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta và đã xác định 4 tiêu chí lớn của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Tiếp theo, tại Đại hội XI Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó khẳng định “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một trong những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời, yêu cầu phải nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI đã xác định “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một đột phá chiến lược; cụ thể hóa hơn phạm trù “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội(1)

Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta được thực tiễn khẳng định là đúng đắn và từng bước đi vào cuộc sống, những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời gian qua đã khẳng định điều đó. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, các yếu tố thị trường chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, có khi vận hành thiếu lành mạnh (như thị trường bất động sản, thị trường tài chính – tiền tệ...), đặc biệt còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường còn chưa sáng tỏ. Thậm chí, có ý kiến cho rằng chúng ta đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hoặc theo mô hình dân chủ xã hội. Vì vậy, phải nghiên cứu sâu để làm sáng tỏ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta, khả năng kết hợp giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, khả năng phát triển nền kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa, những giải pháp để kết hợp một cách biện chứng, hài hòa giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.(1)

2- Thực tiễn đến nay cho thấy, chúng ta chưa xây dựng được một lý thuyết vững chắc về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, trong thực tiễn chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của kinh tế thị trường cũng như của định hướng xã hội chủ nghĩa khi xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về cấu trúc, quan hệ giữa các yếu tố, bộ phận hợp thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế kết hợp chúng như thế nào cho biện chứng, hài hòa, một cách hữu cơ vẫn chưa được làm sáng tỏ. Trong thực tế, sự kết hợp đó còn mang tính máy móc, lắp ghép; chỉ đạo còn thiếu nhất quán, lúc mở ra lúc co lại, lúc đề cao vai trò của thị trường thì coi nhẹ định hướng xã hội chủ nghĩa, lúc chú trọng định hướng xã hội chủ nghĩa thì vi phạm quy luật của thị trường. Vì vậy, làm cho quá trình phát triển của kinh tế thị trường bị chậm lại, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Việc điều hành giá xăng dầu, giá điện những năm gần đây cho thấy rất rõ điều đó.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, thị trường. Tuy nhiên, mối quan hệ này, nhất là về mặt lợi ích kinh tế còn chưa được xử lý phù hợp, chưa phát huy được tính năng động của Nhà nước cũng như vai trò thúc đẩy của thị trường, đặc biệt là vai trò lực lượng xung kích của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường phải được thể hiện trong hệ thống luật pháp và chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, hệ thống này hình thành còn chậm, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và một số mặt chưa phù hợp, đã gây cản trở, làm méo mó quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Hiệu lực quản lý nhà nước còn hạn chế, còn buông lỏng chức năng quản lý, vai trò giám sát, kiểm tra của Nhà nước, vai trò điều tiết, vai trò kiến tạo cho sự phát triển kinh tế còn yếu, điều hành nền kinh tế còn nặng tính hành chính; phân định chức năng quản lý giữa một số bộ, ngành vẫn còn chưa thật rõ ràng, chồng chéo; đồng thời còn duy trì quá lâu sự độc quyền trong một số lĩnh vực (độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp).

Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập, nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập, còn nhiều yếu tố bất ổn định gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh và đầu tư. Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia có xu hướng bị tụt hạng. Theo Báo cáo môi trường kinh doanh được Ngân hàng Thế giới (WB) và Công ty tài chính quốc tế (IFC) công bố ngày 23 - 10 - 2012, môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp thứ 99 trong 185 nền kinh tế, thấp hơn so với thứ hạng trung bình toàn khu vực Đông Á – Thái Bình Dương (99/86). Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh quốc gia toàn cầu 2012 - 2013, ngày 5 - 9 - 2012 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam được chấm 4,11 điểm, xếp hạng 75, tụt 10 bậc so với năm 2011. Trong phần nhận xét về Việt Nam, Báo cáo của WEF khẳng định: “Trong 2 lần xếp hạng gần nhất, Việt Nam đã tụt 16 bậc và hiện là nước có thứ hạng thấp thứ hai trong số 8 thành viên ASEAN được khảo sát”. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm chậm được cải thiện, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn theo chiều rộng (tăng đầu tư về nguyên, nhiên vật liệu, sức lao động), việc chuyển sang tăng trưởng theo chiều sâu (bằng khoa học, công nghệ, trí tuệ chất xám...) theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn rất chậm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nền kinh tế vẫn đang bị tụt hậu so với thế giới và khu vực.

Những đặc trưng của kinh tế thị trường, như tự do hóa giá cả, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bỏ dần hàng rào bảo hộ đối với doanh nghiệp nhà nước còn chậm được thực hiện. Thực trạng đầu tư chưa theo tín hiệu của thị trường còn phổ biến, nhiều dự án đầu tư vẫn theo chỉ định cấp phát, cơ chế “xin - cho” vẫn còn tồn tại.

Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước (các tập đoàn, tổng công ty, công ty...) sử dụng nhiều vốn ngân sách nhà nước, song phần lớn sử dụng không hiệu quả, năng suất thấp, thất thoát, lãng phí, tiêu cực (tiêu biểu là Vinashin, Vinalines); hệ số ICOR cao, tỷ suất sinh lời trên vốn thấp.

Cải cách thể chế còn chậm, nhất là thủ tục hành chính, các thị trường như thị trường bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ, thị trường khoa học và công nghệ chậm phát triển. Hạn chế này đã tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo nên sự bất lợi cho Việt Nam trong cạnh tranh quốc tế.

Các công cụ quản lý nhà nước, như quy hoạch, kế hoạch... chưa phát huy được vai trò tích cực dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan, theo phong trào (bến cảng, sân bay, khu công nghiệp, sân golf...).

Cơ chế thị trường hoạt động kém hiệu quả, quá trình tự do hóa kinh tế diễn ra chậm chạp, một phần do sự can thiệp quá mức của Nhà nước vào quá trình sản xuất – kinh doanh; mặt khác, do duy trì quá lâu quan hệ kinh tế phi thị trường giữa nhà nước và doanh nghiệp, các nguyên tắc thị trường bị vi phạm.

Phát triển kinh tế chưa chú trọng đầy đủ đến việc giải quyết các vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội, tình trạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, chênh lệch giàu nghèo ngày càng doãng ra, gây ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị - xã hội. Tài nguyên bị sử dụng lãng phí, nặng về khai thác mà coi nhẹ về quản lý, bồi bổ, tái tạo tài nguyên; môi trường sinh thái bị hủy hoại, xuống cấp, ô nhiễm; biến đổi khí hậu toàn cầu cùng với nạn nước biển dâng sẽ ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Những điều trên đây nói lên những hạn chế, yếu kém của chúng ta cả về phát triển kinh tế thị trường, cả về định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như về sự kết hợp giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao nhận thức lý luận và trình độ chỉ đạo thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3- Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết, có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Kinh tế thị trường với các quy luật của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh... tạo ra động lực lợi ích để thúc đẩy kinh tế phát triển, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm... là mặt tích cực. Mặt tích cực của kinh tế thị trường phù hợp với bản chất của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu mới (không phải chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ tập trung, quan liêu, bao cấp), thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên, có thể nói, vận dụng đúng đắn các quy luật của kinh tế thị trường, về cơ bản và lâu dài, là phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, như Đại hội VIII của Đảng đã nhận định, “kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm... Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực đó”(2).

Mặc dù vậy, không thể vì muốn giữ mặt tích cực mà lại muốn xóa bỏ hoàn toàn mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Điều đó là không thể thực hiện được vì trái với phép biện chứng: Không có mặt tiêu cực thì cũng không có mặt tích cực và ngược lại, xóa bỏ mặt này cũng có nghĩa xóa bỏ luôn mặt kia, giống như hai mặt của một tấm huân chương. Ở đây, tư duy biện chứng về kinh tế thị trường đòi hỏi phải tư duy về nó như một chỉnh thể trong sự thống nhất các mặt đối lập: Tích cực và tiêu cực, theo hướng phát huy tối đa mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực. Đó cũng chính là sự kết hợp biện chứng các mặt đối lập.

Mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đối lập với chủ nghĩa xã hội, với định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt tiêu cực này trái với đạo lý, với lý tưởng của người cộng sản, song không có nó thì cũng không có kinh tế thị trường được, không có kinh tế thị trường trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cũng không có chủ nghĩa xã hội, không thể phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, mà thiếu nó thì như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức - sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến, và con người sẽ quay lại tình trạng ti tiện như trước kia, vì sẽ tranh giành lấy miếng ăn. Mặc dù không muốn mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, song chúng ta phải chấp nhận và hạn chế nó; phải kết hợp kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa như là hai mặt đối lập, biện chứng như V.I.Lênin(2)đã từng nêu lên trước đây: Kết hợp giữa nhà buôn xỉ với người cộng sản. Song, V.I.Lênin cũng chỉ rõ, vấn đề là kết hợp như thế nào để tạo ra một âm thanh du dương chứ không phải một âm thanh chối tai. Ông gọi đây là nghệ thuật kết hợp các mặt đối lập để tạo thành tư duy biện chứng. Tư duy biện chứng không phải là tư duy về từng mặt riêng lẻ trong sự cô lập, mà tư duy về hai mặt trong sự thống nhất: Không phải hoặc kinh tế thị trường, hoặc định hướng xã hội chủ nghĩa mà vừa là kinh tế thị trường vừa là định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai mặt này phải được tư duy trong sự liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau, hài hòa với nhau như là “2 trong 1” trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi phát triển kinh tế thị trường, thực hiện cơ chế thị trường phải chú ý đến định hướng xã hội chủ nghĩa, đến việc giải quyết những vấn đề xã hội, hệ quả xã hội của nó. Trái lại, khi quan tâm định hướng xã hội chủ nghĩa phải chú ý vận dụng cơ chế thị trường, quan tâm đến quy luật kinh tế, động lực kinh tế, lợi ích kinh tế. Có thể nói, cốt lõi của mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng xã hội là mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của Đảng ta, phải kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong mỗi bước đi và trong cả quá trình, trong mỗi chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải đi liền với công bằng xã hội, nhưng không vì công bằng xã hội mà làm triệt tiêu động lực kinh tế. Giải quyết những vấn đề xã hội, công bằng xã hội phải thông qua cơ chế phân phối sản phẩm, thông qua các chính sách, pháp luật, kế hoạch và vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước.

Trong nhận thức và chỉ đạo phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa ở nhiều cán bộ còn mang tính chất siêu hình, máy móc, lúc cường điệu vai trò kinh tế thị trường mà coi nhẹ định hướng xã hội chủ nghĩa, lúc nhấn mạnh định hướng xã hội chủ nghĩa một cách cứng nhắc mà coi nhẹ cơ chế thị trường. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc của kinh tế thị trường, phát triển bền vững trên cơ sở chú trọng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đồng thời, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường là phương thức phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nó không thể quyết định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ xã hội. Chỉ phát triển có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới có khả năng thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn ở Việt Nam theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa phải là những thuộc tính bản chất, những yếu tố nội tại, gắn bó hữu cơ trong mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta mà không thể coi nhẹ yếu tố nào. Định hướng xã hội chủ nghĩa phải được quán triệt khi vận hành các nguyên tắc của thị trường; ngược lại, việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa không được tách rời các quy luật của thị trường.

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chỉ có phát triển hiệu quả, bền vững nền kinh tế thị trường trong quá trình thực thi các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mới tạo được cơ sở kinh tế bảo đảm cho phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước thực sự kinh doanh có hiệu quả đóng vai trò chủ đạo, mới là cơ sở kinh tế vững chắc của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta q

 

 

 


(*) Giáo sư, tiến sĩ. Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.204-205.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.459.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: 59 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007