1. Đạo đức kinh doanh, xét một cách tổng thể, là hệ thống chuẩn mực giá trị hướng tới các giá trị cộng đồng. Với các doanh nghiệp, đó là việc tuân thủ một cách tự nguyện luật pháp, là cạnh tranh hợp pháp, tôn trọng các hợp đồng đã ký, bảo vệ môi trường, tham gia cứu trợ xã hội, từ thiện, v.v.. Với các cá nhân, đó là kinh doanh phải trung thực dựa trên các nguyên tắc định sẵn, có triết lý kinh doanh riêng, thực hiện đúng nghĩa vụ và quyền lợi, chỉ làm những việc mà luật pháp cho phép, v.v.. Tất cả những điều này, về cơ bản, đều nằm dưới sự điều chỉnh của Nhà nước.
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước bao giờ cũng đóng vai trò định hướng cho các giá trị chung của xã hội. Vì vậy, định hướng giá trị được xem là nhiệm vụ tự thân của mỗi một nhà nước, bao hàm trong đó sự định hướng về các giá trị đạo đức trong kinh doanh. Dưới tác động của điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các giá trị đạo đức truyền thống đang có những chuyển biến đa chiều và phức tạp, vừa chứa đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ, đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ làm xói mòn các giá trị nền tảng của đạo đức truyền thống. Trước bối cảnh đó, đòi hỏi nhà nước cần có những biện pháp thiết thực nhằm định hướng các giá trị đạo đức kinh doanh phát triển theo đúng các giá trị của đạo đức mới.(*)
2. Đạo đức kinh doanh được hiểu là một bộ phận của hình thái ý thức đạo đức, là tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát các hành vi của các chủ thể sản xuất, kinh doanh trong điều kiện môi trường kinh doanh của cá nhân và tổ chức đó.
Đạo đức kinh doanh với tư cách một bộ phận của hình thái ý thức đạo đức bao gồm các thành tố: Nhu cầu đạo đức, tình cảm đạo đức, tri thức đạo đức, chuẩn mực và lý tưởng đạo đức. Khác với pháp luật là những quy tắc, chuẩn mực có tính chất bắt buộc và cưỡng chế thì việc thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức lại có tính tự giác thông qua điều chỉnh của dư luận xã hội.
Đối với nước ta, việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, một mặt, nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế; mặt khác, phải đảm bảo sự tiến bộ và công bằng, vì sự phát triển đời sống vật chất, tinh thần và sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Do đó, việc xây dựng các giá trị đạo đức trong kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng, được thể hiện cụ thể trên các phương diện sau:
Thứ nhất, đạo đức kinh doanh góp phần thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức trong kinh doanh là liều thuốc quan trọng nhằm tăng sức đề kháng của các chủ thể kinh doanh trước những cám dỗ của nền kinh tế thị trường. Cùng với việc hoàn thiện cơ chế thị trường, xây dựng đạo đức mới trong kinh doanh là điều kiện cơ bản nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững, lành mạnh của nền kinh tế, khắc phục tình trạng phát triển chỉ vì lợi ích kinh tế mà lệch chuẩn về đạo đức. Một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường được xây dựng và phát triển với những chuẩn mực của đạo đức kinh doanh mới là sự thống nhất cao giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội, từng bước khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Thứ hai, đạo đức kinh doanh là thành tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp xem đạo đức kinh doanh là nền tảng của hoạt động kinh doanh của mình. Khi bàn về vai trò của đạo đức trong kinh doanh, Giáo sư Koenraad Tommissen, người đã có kinh nghiệm trên 30 năm điều hành, giảng dạy và tư vấn doanh nghiệp cho biết, đạo đức kinh doanh là vấn đề nền tảng của mọi giá trị, là phần không thể tách rời của mọi hoạt động, là kim chỉ nam, yếu tố cơ bản tạo ra danh tiếng cho một công ty. Đạo đức là nền tảng của sự thành công và phát triển bền vững. Ông nhấn mạnh, đạo đức được đặt ra và thể hiện khi có sự tương tác với các đối tác, qua cách cư xử với khách hàng, cơ quan chính quyền, báo chí... Có những doanh nghiệp công bố rất nhiều các chuẩn mực về đạo đức, nhưng nhân viên không biết hoặc không nhớ, điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của công ty.
Đạo đức kinh doanh sẽ giúp các chủ thể kinh doanh tự điều chỉnh hoạt động của mình sao cho phù hợp với những đòi hỏi của các chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực đạo đức nhằm hướng tới cái thiện, cái mỹ. Nó giúp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn và mang tính nhân văn cao hơn. Điều đó tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững, hài hòa trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể. Bởi vì, thị trường chỉ có thể thừa nhận những doanh nghiệp biết tôn trọng văn hoá đạo đức trong kinh doanh. Ngược lại, thị trường sẽ trừng phạt các doanh nghiệp không biết tôn trọng luật chơi của thị trường.
Thứ ba, đạo đức kinh doanh là yếu tố quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và quan liêu.
Hoạt động dựa trên các chuẩn mực đạo đức cũng có nghĩa là các chủ thể kinh doanh không bao giờ chấp nhận hay là thoả hiệp với các hành vi đi ngược lại các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của cộng đồng. Do đó, trong quan hệ với các cơ quan công quyền của nhà nước, các cá nhân và doanh nghiệp ý thức được việc họ không tham gia vào những hoạt động phi pháp và chủ động tố giác các hành vi tham nhũng, quan liêu của các công chức trong bộ máy nhà nước. Nhờ đó, sẽ góp phần quan trọng làm trong sạch bộ máy nhà nước, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh.
Thứ tư, đạo đức kinh doanh góp phần bồi đắp những giá trị mới cho đạo đức truyền thống.
Với việc kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đạo đức kinh doanh dựa trên các chuẩn mực mới, như đối với doanh nghiệp đó là tinh thần tự giác tuân thủ pháp luật, cạnh tranh một cách hợp pháp, tôn trọng hợp đồng đã ký, bảo vệ môi trường, tham gia cứu trợ xã hội, còn đối với cá nhân là tính trung thực, khiêm tốn, nhận thức đúng các nguyên tắc kinh doanh, xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, nhận thức đúng cái được làm, cái không được làm, cái thiện và cái ác, tôn trọng đối tác, tôn trọng khách hàng,...
Đạo đức không phải là sự biểu hiện của một lực lượng siêu nhiên nào đó, hay là những năng lực sẵn có ở con người. Với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có nguồn gốc từ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ph.Ăngghen cho rằng, xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế, xã hội. Đạo đức kinh doanh cũng không nằm ngoài quy luật chung ấy.
Thực tế cho thấy, bên cạnh những giá trị tích cực do nền kinh tế thị trường và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, như tính chủ động, năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận rủi ro, dám vươn lên tự khẳng định mình, nền kinh tế thị trường còn có tác động tiêu cực, phá vỡ nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp được hình thành bấy lâu trong lĩnh vực kinh doanh. Cơ chế thị trường cổ vũ và thúc đẩy các chủ thể kinh doanh trở nên thực dụng hơn. Họ sẵn sàng sử dụng nhiều thủ đoạn vì mục đích lợi nhuận. Nguy cơ này đã được C.Mác cảnh báo trong bộ Tư bản với việc trích dẫn lại lời của nhà kinh tế học T.J.Dunning rằng, “với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Được đảm bảo 10% lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được; được 20% thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50% thì nó trở nên thật sự táo bạo, được 100% thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người, được 300% thì không còn tội ác nào mà nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ”(1).
Hiện nay, trong sản xuất và kinh doanh đã xuất hiện ngày càng nhiều hành vi vi phạm đạo đức, như trốn thuế, lừa đảo, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, chứa chất độc hại, sản xuất làm ô nhiễm môi trường, không quan tâm đến đời sống của công nhân, v.v.. Đây là một trong những yếu tố đang làm xói mòn những giá trị đạo đức truyền thống, là lực cản trên con đường xây dựng giá trị đạo đức mới. Vì vậy, vấn đề đặt ra là Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong việc định hướng các giá trị đạo đức kinh doanh nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đến đạo đức kinh doanh, đồng thời kiến tạo những giá trị đạo đức kinh doanh mới.
Nhà nước ta với bản chất là ý chí của giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của những người lao động nhằm thiết lập xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, Nhà nước là một công cụ quan trọng để qua đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động định hướng xã hội theo các giá trị đạo đức tốt đẹp, trong đó bao gồm cả đạo đức kinh doanh.
Vai trò định hướng các giá trị đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh của Nhà nước được thực hiện thông qua nhiều phương thức, hình thức khác nhau, như xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ những giá trị đạo đức của xã hội; xây dựng và đảm bảo việc thực thi các quy tắc đạo đức trong xã hội; tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho các chủ thể kinh doanh trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức cho kinh doanh; thông qua các chính sách khuyến khích, tuyên dương các chủ thể kinh doanh tuân thủ đầy đủ các quy tắc đạo đức và pháp luật.
3. Để có thể hiện thực hóa vai trò của Nhà nước trong việc định hướng các giá trị đạo đức kinh doanh, theo chúng tôi, cần phải thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau:(1)
3.1. Đưa các giá trị đạo đức kinh doanh vào hệ thống pháp luật của Nhà nước
Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên trong hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn còn một bộ phận không nhỏ các chủ thể kinh doanh chưa tự giác tuân thủ những quy tắc, chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Vì vậy, nhất thiết phải xây dựng hệ chuẩn đạo đức kinh doanh trong hệ thống pháp luật. Các chuẩn mực đạo đức kinh doanh phải được cụ thể hóa trong các quy phạm pháp luật, nhất là trong hệ thống pháp luật về kinh tế nhằm bảo vệ những giá trị đạo đức kinh doanh, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh. Để làm được điều này, thiết nghĩ cần phải:
Một là, hoàn thiện công tác xây dựng và ban hành pháp luật.
Trong sản xuất, kinh doanh, hiện còn nhiều lĩnh vực chưa có quy định, chế tài một cách minh bạch, rõ ràng; các bộ luật, đạo luật và kể cả những văn bản dưới luật chưa xác định một cách đầy đủ đối tượng điều chỉnh, phạm vi áp dụng. Điều đó dẫn đến nhiều hệ lụy cho việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tình hình ấy đòi hỏi chúng ta phải từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đồng thời phải loại bỏ những văn bản pháp luật không còn thích hợp với thực tế trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh. Mặt khác, cần chú trọng việc xây dựng và ban hành những bộ luật, đạo luật mới cho phù hợp với những biến đổi của nền kinh tế, đồng thời phải đảm bảo được tính nhân văn của pháp luật. Đây chính là các giá trị chung mà các nhà làm luật cần hướng tới.
Bên cạnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện nhằm đảm bảo hiệu lực thực thi pháp luật.
Hai là, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho các chủ thể kinh doanh.
Để pháp luật về kinh doanh thực sự đi vào cuộc sống, đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải được trang bị những tri thức đúng đắn về pháp luật, về vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ bản thân chủ thể kinh doanh, cũng như bảo vệ các giá trị đạo đức của các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ sản xuất kinh doanh. Thực hiện nhiệm vụ này, trước hết phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật kinh doanh tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm tôn trọng và ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể sản xuất, kinh doanh.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật.
Trong quá trình tác động, điều chỉnh pháp luật cần phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, xử lý những hành vi bất hợp pháp trong kinh doanh. Có thể hiểu, công tác kiểm tra, giám sát là một khâu nằm trong quá trình quản lý nhà nước, nếu thiếu nó thì hoạt động điều chỉnh các hành vi kinh doanh sẽ kém hiệu lực, hiệu quả. Mục đích của công tác kiểm tra, giám sát là phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật để kịp thời có biện pháp xử lý. Cần phải coi trọng việc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hành vi vi phạm pháp luật kinh doanh, kiên quyết xử lý những hành vi vi phạm pháp luật.
3.2. Xây dựng và hoàn thiện bộ quy tắc đạo đức kinh doanh
Thực tế hiện nay cho thấy, nhằm nâng cao uy tín và thương hiệu của mình các chủ thể kinh doanh đang tự xây dựng những quy tắc đạo đức, quy tắc ứng xử riêng. Ở tầm quốc gia, năm 2007, Việt Nam đã thành lập Mạng lưới Hiệp ước toàn cầu Việt Nam (GCNV) hỗ trợ các nguyên tắc hoạt động của Hiệp ước toàn cầu của Liên hợp quốc; qua đó, nhằm cải thiện các điều kiện xã hội và môi trường cho người lao động Việt Nam, cộng đồng và hoạt động của các công ty mà họ làm việc. GCNV được tài trợ bởi Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) quản lý và thực hiện.
Mặc dù vậy, những quy tắc đạo đức, quy tắc ứng xử này chưa thực sự có tác dụng điều chỉnh các hành vi của các chủ thể kinh doanh một cách có hiệu quả. Thực tế đó đòi hỏi phải xây dựng một bộ quy tắc đạo đức kinh doanh chung phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thông lệ quốc tế, cũng như các điều kiện để đảm bảo bộ quy tắc đạo đức kinh doanh đó được thực thi có hiệu quả.
3.3. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm sát để ngăn ngừa, phòng chống tệ nạn tham nhũng, làm trong sạch bộ máy nhà nước
Với tư cách chủ thể định hướng các giá trị đạo đức kinh doanh, Nhà nước phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực đảm bảo sự trong sạch và minh bạch trong hoạt động của mình. Do đó, phòng chống quan liêu, tham nhũng trở thành một trong những nhiệm vụ tự thân của Nhà nước. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần sử dụng một cách đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức về tác hại và nguyên nhân của “quốc nạn” tham nhũng. Ở đây, xin nhấn mạnh tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tham ô là trộm cướp”, là “giặc nội xâm”, nên “chống tham ô... cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”(2). Từ đó, xây dựng quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị cũng như của toàn dân trong cuộc đấu tranh với nạn tham nhũng. Việc đấu tranh chống tham nhũng không thể tiến hành từ dưới lên mà phải từ trên xuống, nghĩa là phải có sự cam kết tuyên chiến với tham nhũng từ cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong Đảng và bộ máy nhà nước các cấp. Điều này phải được thể hiện bằng những chiến lược và hành động thực tiễn, được cụ thể hoá và công khai hoá để nhân dân giám sát chứ không dừng lại ở những nghị quyết, ở các phong trào, các khẩu hiệu.(2)
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong các tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, ở mọi cấp, mọi ngành để tạo nên sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc đấu tranh này. Đồng thời, phải kết hợp chặt chẽ với việc tuyên truyền tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cổ vũ phong trào Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm hình thành các chuẩn mực đạo đức công vụ đúng đắn – nhân tố quan trọng để cán bộ, công chức miễn dịch với tệ tham nhũng.
Thứ ba, mặc dù chúng ta đã ban hành tương đối đầy đủ các văn bản pháp luật về phòng chống tham nhũng, cũng như xây dựng được hệ thống các cơ quan thực hiện nhiệm vụ này, song, vấn đề cơ bản hiện nay là khắc phục những rào cản nhằm đảm bảo luật pháp được thực thi một cách đầy đủ trong thực tiễn, trước hết là Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán, Quy chế dân chủ cơ sở... Bên cạnh đó, cũng cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng thuộc các bộ phận, như thanh tra, kiểm toán, công an, Viện Kiểm sát. Quyền lực của các cơ quan này phải được tăng cường hơn nữa và có chức năng hỗ trợ đặc biệt cho cơ quan đặc trách của Trung ương về chống tham nhũng.
Thứ tư, xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong các tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực phải được kiềm chế bởi quyền lực. Việc xây dựng các thể chế này càng cụ thể và chặt chẽ bao nhiêu thì quyền lực càng được kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu, đặc biệt là trong những lĩnh vực thường xảy ra tham nhũng.
Thứ năm, cần đẩy nhanh hơn nữa việc hoàn thiện và thực hiện một cách nghiêm chỉnh quy chế kê khai tài sản của cán bộ, công chức. Phải tiến hành kiểm tra tài chính chặt chẽ đối với thu nhập và tài sản cá nhân (bao gồm cả thân nhân), đồng thời công bố công khai trong tổ chức, cơ quan cũng như tại địa bàn nơi cán bộ, công chức công tác và sinh sống. Đây sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để kiểm tra, giám sát nguồn thu nhập của cán bộ, công chức, nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức công vụ. Ngoài ra, phải kết hợp được chế độ giám sát ở cơ quan và giám sát của người dân đối với những biến động tài sản của cán bộ, giúp phòng ngừa hiệu quả hành vi tham nhũng.
Thứ sáu, cùng với việc đẩy mạnh hơn nữa cải cách bộ máy nhà nước, cần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, hạn chế đến mức thấp nhất cơ hội làm nảy sinh tham nhũng. Nhà nước phải tăng cường và nâng cao chất lượng thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vụ tham nhũng, trước hết là những vụ tham nhũng đang nổi cộm hiện nay.
Thứ bảy, tăng cường hoạt động giám sát của người dân, các tổ chức đoàn thể và các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Để làm được điều đó, cần phải thể chế hoá một cách cụ thể và chặt chẽ các quy định cũng như cơ chế để nhân dân có thể thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình; qua đó, phản ánh, kiến nghị, tố cáo những hành vi tham nhũng, cũng như thực hiện quyền bãi miễn của mình đối với cán bộ tham nhũng. Bên cạnh đó, phải xây dựng những quy định chặt chẽ trong việc khen thưởng và bảo vệ những người có công trong việc tố giác các hành vi tham nhũng.
Ngoài ra, việc phát huy vai trò của phương tiện truyền thông cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Bởi nhờ phương tiện truyền thông, người dân sẽ được cung cấp thông tin một cách chính xác và kịp thời về những hoạt động của Nhà nước, doanh nghiệp, góp phần thực hiện phản biện xã hội nhằm phát huy các yếu tố tích cực của xã hội công dân trong kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng.
Thứ tám, đổi mới công tác cán bộ, hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử lý những cán bộ quan liêu, tham nhũng. Đồng thời, điều chỉnh, cải cách hệ thống tiền lương, tiền thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức làm cho cán bộ, công chức có thể đủ sống bằng lương, tránh được sự cám dỗ của đồng tiền.
3.4. Hoàn thiện thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – cơ sở kinh tế của đạo đức kinh doanh
Như đã nói ở trên, đạo đức kinh doanh có nguồn gốc từ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ cơ sở kinh tế - xã hội. Bởi vậy, để định hướng các giá trị đạo đức kinh doanh, tất yếu Nhà nước phải tác động vào cơ sở tồn tại của nó – thể chế kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trường được hiểu là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường. Thể chế kinh tế thị trường bao gồm:
- Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường – các bên tham gia thị trường với tư cách là các chủ thể thị trường.
- Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.
- Các thị trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu cầu, quy định của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản...). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân thủ theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, việc hoàn thiện thể chế thị trường cũng chính là hoàn thiện các bộ phận cấu thành của nó. Để làm được điều này, cần triển khai đồng bộ các giải pháp:
Một là, đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện các quy tắc, chuẩn mực về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường làm cơ sở để điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh doanh.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các nguyên tắc và chuẩn mực về đạo đức kinh doanh đang trở thành những tiêu chuẩn để xây dựng uy tín trong cộng đồng kinh doanh quốc tế, chúng là nền tảng hình thành những ấn tượng đầu tiên và giúp duy trì mối quan hệ đang diễn ra. Do đó, bên cạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh thì việc xây dựng hệ thống các quy tắc chuẩn mực về hành vi kinh doanh là điều cần thiết.
Hai là, Nhà nước cần đảm bảo cho pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực về hành vi kinh tế được thực thi một cách công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi Nhà nước phải loại bỏ sự phân biệt đối xử còn tồn tại trong thực tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; kiểm soát độc quyền tự nhiên; tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ tài sản trí tuệ và cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và lợi dụng vị thế thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh... Đồng thời, phải thực hiện công khai, minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình về các chính sách quản lý, các đề án phát triển cũng như trong hoạt động của các chủ thể kinh doanh, tạo điều kiện cho người dân giám sát các quyết định của các cơ quan quản lý([3]).
Ba là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, như thị trường vốn, bất động sản, thị trường lao động, khoa học và công nghệ, v.v.. Để làm tốt điều này, cần tạo môi trường và điều kiện cho tự do sản xuất, kinh doanh; đa dạng hóa hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Bảo đảm tự do hành nghề theo quy định của luật pháp, tự do lưu thông hàng hóa, tự do tín dụng. Doanh nghiệp được tự quyết định và chủ động trong kinh doanh.
3.5. Giáo dục văn hóa đạo đức trong kinh doanh
Sự hình thành các giá trị đạo đức kinh doanh với tính chất một nét văn hóa trong kinh doanh là một quá trình lâu dài. Để cho quá trình này diễn ra nhanh hơn thì giáo dục được coi là yếu tố hết sức quan trọng. Việc giáo dục đạo đức kinh doanh có thể thực hiện bằng nhiều phương thức, hình thức, phương tiện khác nhau, cụ thể như:
- Giáo dục đạo đức kinh doanh trong nhà trường, đặc biệt là các khối ngành kinh tế. Việc giáo dục đạo đức phải gắn liền với thực tiễn kinh doanh, để qua đó người học thấy được vai trò của đạo đức, thấy được hậu quả của những hành vi vi phạm đạo đức trong kinh doanh nhằm hình thành cho người học – những chủ thể kinh doanh của tương lai ý thức tự giác trong tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức trong kinh doanh.
- Phương tiện thông tin đại chúng sẽ là một công cụ hữu hiệu để cung cấp cho các chủ thể kinh doanh những tri thức đạo đức kinh doanh, từ đó hình thành nên tình cảm, lý tưởng đạo đức thúc đẩy các chủ thể tự giác tuân theo những quy tắc và chuẩn mức đạo đức được xã hội thừa nhận.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những chính sách nhằm động viên, khuyến khích những hành vi đạo đức trong kinh doanh, như trao các giải thưởng tôn vinh những chủ thể kinh doanh tiêu biểu về đạo đức kinh doanh, đưa đạo đức vào tiêu chí xếp loại các doanh nghiệp, v.v.. Đồng thời, định hướng dư luận xã hội vào việc lên án mạnh mẽ những hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều giá trị mới đang dần hình thành, trong đó bao gồm các giá trị đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại giúp cho chủ thể kinh doanh thấy rằng, thị trường thế giới rộng lớn đầy tiềm năng trên phạm vi toàn cầu là môi trường vô cùng thuận lợi để tìm kiếm lợi nhuận không chỉ cho riêng mình, mà còn cho cả cộng đồng dân cư, dân tộc và cho sự phát triển, sự tiến bộ chung của xã hội. Bởi vậy, chỉ những ai biết tôn trọng khách hàng, biết tôn trọng đạo lý và biết lấy chữ tín làm đầu mới có hy vọng thành đạt trên cả thương trường trong nước lẫn thương trường quốc tế. Tuy nhiên, chính sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội ấy đang làm cho những giá trị đạo đức truyền thống bị biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Do đó, với bản chất là công cụ của nhân dân lao động để làm chủ công cuộc xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò hướng dẫn các giá trị đạo đức kinh doanh theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. q