Nền văn hóa Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay đã trải qua ba thời kỳ phát triển. Trong mỗi thời kỳ phát triển, trí thức Việt Nam đều giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần, trong hoạt động sáng tạo và trong việc hình thành những chuẩn mực, lối sống đặc trưng của người Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nền văn hóa cách mạng ở Việt Nam với đặc trưng cơ bản là chống đế quốc, chống phong kiến, xây dựng những chuẩn mực dân tộc, khoa học, đại chúng đã được tạo ra. Trí thức Việt Nam trong giai đoạn này là sản phẩm của nền văn hóa truyền thống - nền văn hóa dựa trên sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước, các cư dân sống chủ yếu trong các làng xã, liên kết với nhau bởi hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã được Việt Nam hóa qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Do vậy, phần lớn trong giới trí thức Việt Nam giai đoạn này là những nhà nho, thầy giáo, văn nghệ sĩ có nguồn gốc nông dân từ các làng xã, được đào tạo trong các nhà trường của chế độ cũ. Với lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, họ tự nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành những nhân tố tiên tiến trong nền văn hóa của chế độ dân chủ nhân dân mang đặc trưng dân tộc - khoa học - đại chúng, trở thành những chiến sĩ thực thụ trên mặt trận khoa học, giáo dục và văn hóa, nghệ thuật.(*)
Thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước sau năm 1954 là thời kỳ phát triển thứ hai của nền văn hóa cách mạng Việt Nam. Ở giai đoạn này, nền văn hóa Việt Nam đã chuyển hướng từ chỗ xây dựng nền văn hóa mang đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng sang xây dựng nền văn hóa mang nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa này, trí thức Việt Nam phải xây dựng bản thân mình thành người trí thức xã hội chủ nghĩa. Họ phải cải tạo tư tưởng, hình thành thế giới quan mới, nhân sinh quan mới. Nhiều thầy giáo, văn nghệ sĩ, nhà khoa học không chỉ bám đồng ruộng, bám nhà máy, bám biển khơi, lên rừng núi mà còn ra mặt trận, đến tiền tuyến để thực thi nhiệm vụ phát triển văn hóa. Nhờ đó, nền văn hóa mang nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc đã tạo ra một đội ngũ trí thức trong lao động sản xuất và chiến đấu, đồng thời tạo ra được một nền khoa học - giáo dục - nghệ thuật xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của thời đại chống đế quốc.
Nền văn hóa Việt Nam từ năm 1986 đã bước vào một thời kỳ mới. Đó là thời kỳ chưa từng có trong lịch sử phát triển của dân tộc, được xây dựng trên cơ sở phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và mở rộng giao lưu văn hóa trong tiến trình toàn cầu hóa. Nền văn hóa này, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (năm 1991) đã xác định, là một nền văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mang đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây chính là thời kỳ thứ ba trong quá trình phát triển nền văn hóa cách mạng ở Việt Nam.
Trong nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam cần phải hình thành một đội ngũ trí thức như một hệ thống cấu trúc mạnh của xã hội. Để làm được điều này, các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X)... đã gợi mở con đường xây dựng một đội ngũ trí thức mạnh cho nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) khẳng định rằng, văn hoá Việt Nam hôm nay là thành quả kế thừa văn hoá của toàn bộ lịch sử dân tộc trước đây và nó đang vận động trong cơ chế thị trường, mô thức phát triển của nó là tiên tiến, đậm đã bản sắc dân tộc. Nghị quyết viết: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người; tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”(1). Một trong 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản của Nghị quyết chính là khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức: “Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”(2).
Để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xu thế mở rộng giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay, những trí thức trong thời kỳ đổi mới trước hết phải tìm hiểu và xây dựng hệ thống lý luận về nền văn hóa này; bởi lẽ, đây là nền văn hóa của cả thời kỳ quá độ, nền văn hóa của giai đoạn đổi mới và chưa từng có tiền lệ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao nền văn hóa dựa trên sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại phải là nền văn hóa tiên tiến? Tại sao nền văn hóa tiên tiến này lại phải đậm đà bản sắc dân tộc? Có phải vì nền văn hóa đó được xây dựng và phát triển trên cơ sở nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên mô thức phát triển của nó phải là tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không? Để trả lời các câu hỏi này, những trí thức Việt Nam đang lao động, hoạt động trên mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học nhân văn đều phải tìm hiểu và phân tích thấu đáo về mặt lý luận cũng như thực tiễn những nội dung cơ bản của nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.(1)
Như chúng ta đều biết, văn hóa là trình độ người của các quan hệ xã hội. Những trí thức Việt Nam hiểu rằng, trong lĩnh vực hoạt động của mình, dù là để cải tạo tự nhiên, xây dựng xã hội, hay phát triển năng lực bản chất của nhân cách, họ chính là những người đang tham gia vào sự nghiệp phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong hoạt động cải tạo tự nhiên, nguồn năng lực trí tuệ của họ đang hàng ngày góp phần giải quyết những điểm nóng, những nhiệm vụ phức tạp. Việc làm thuỷ điện bất chấp những hậu quả có thể có, khai thác nguồn thủy, hải sản bằng những phương tiện hủy diệt, phá rừng phòng hộ, sử dụng hóa chất vô tội vạ, khai khoáng bừa bãi, hủy hoại đất đai,... đều có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với tư cách trí thức, họ đang ra sức xây dựng những cơ sở khoa học cho việc thiết lập mối quan hệ thân thiện và hài hòa giữa con người và tự nhiên, giúp người dân nhận thức đúng đắn hơn về một bộ phận quan trọng của sự phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Trên lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học nhân văn, những trí thức Việt Nam đều nhận thức rõ rằng, nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang hướng đến xây dựng là một nền văn hóa phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa, là nền văn hóa đáp ứng tốt nhất những lợi ích cá nhân nhưng phải gìn giữ cho được phẩm giá dân tộc, là nền văn hóa phát triển đồng thời những cái đúng, cái tốt, cái đẹp,... Từ những nhận thức như vậy, trong lĩnh vực khoa học, giáo dục, những trí thức Việt Nam đã góp sức thúc đẩy sự kết hợp những giá trị truyền thống với những giá trị hiện đại, những giá trị dân tộc với những giá trị quốc tế, những phẩm giá cá nhân với những phẩm giá của cộng đồng, những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với tự nhiên.
Nền văn hóa nào cũng có những nhân cách văn hóa, những nhân cách năng động nhất để phát triển và đại diện ưu việt cho nền văn hóa đó. Trong nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay, người trí thức Việt Nam tự phấn đấu trở thành những con người trung thực, yêu tự do, tôn trọng công lý, tôn trọng phẩm giá con người. Phần lớn trí thức Việt Nam sống thanh tao, đạm bạc và nghiêm túc. Họ rất ghét những kẻ ăn gian, nói dối, lười biếng và xu nịnh. Họ mang vào nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trí tuệ thông minh, phong cách chững chạc, đàng hoàng. Họ là những nhân cách văn hóa lớn của nền văn hoá này trong cơ chế thị trường ở thời kỳ giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng, để xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì bản thân đội ngũ trí thức Việt Nam cần phải phấn đấu rất nhiều để trở thành hạt nhân phát triển nền văn hóa này. Thế nhưng, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được một đội ngũ trí thức hàn lâm. Hiện chúng ta đã có một số nhà trí thức tên tuổi, nhưng nhìn toàn cục, vẫn chưa có được những nhà văn hóa kiệt xuất như nhiều thời kỳ phát triển của nền văn hóa Việt Nam trước kia. Trong nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hôm nay, Việt Nam rất cần một đội ngũ trí thức chuyên sâu, đủ sức đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa.
Định hướng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam khi xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một nền văn hóa phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng. Đó là nền văn hóa có sự phát triển hài hòa cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Nền văn hóa này là một nền văn hóa thống nhất giữa các vùng miền, các khu vực, các phương diện. Nền văn hóa thống nhất của tộc người Kinh với người thiểu số, giữa đồng bằng và miền núi, giữa vùng biển và cao nguyên, hải đảo, vùng xa, vùng sâu,... Nền văn hóa này có sự thống nhất giữa văn hóa công nghiệp, văn hóa thương nghiệp, văn hóa nông nghiệp, văn hóa công sở, văn hóa giao thông, văn hóa y tế, văn hóa học đường,... Đó là một nền văn hóa thống nhất các thế hệ, giới tính, tôn giáo, niềm tin, tâm linh trên cơ sở gìn giữ những phẩm giá dân tộc. Sự thống nhất này bao gồm sự khác biệt về địa văn hóa, các phong tục, tập quán, những cá tính và truyền thống địa phương. Đó là sự khác biệt của sự thống nhất trong đa dạng. Sự thống nhất và khác biệt này đều gắn liền với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Định hướng xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi “đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân, giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa”(3); “trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”(4). Để thực hiện được vai trò quan trọng này, đội ngũ trí thức không chỉ phát triển toàn diện, mà còn phải thống nhất trong đa dạng, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, phát triển đa dạng các ngành nghề, được phân bổ hợp lý ở các khu vực, vùng miền, nghề nghiệp, các thế hệ, giới tính,... mới có thể đáp ứng được nhu cầu xây dựng và phát triển nền văn hóa quan trọng và lớn lao này.
Trên thực tế, đội ngũ trí thức của Việt Nam hiện nay, về đặc điểm nghề nghiệp và đào tạo, có thể nói là chưa phát triển toàn diện. Việt Nam hiện có khoảng một triệu người có trình độ đại học được đào tạo trong và ngoài nước với một quy hoạch chưa có sự định hướng phân bổ rõ ràng cho những lĩnh vực, những vùng miền nào của nền văn hóa. Có khoảng 4000 giáo sư và phó giáo sư cũng trong tình trạng như vậy. Phần lớn họ thuộc về lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giảng dạy, chưa có quy hoạch cho các khu vực nông nghiệp, công nghiệp, y tế, giao thông vận tải, miền xuôi, miền núi, phía Nam, phía Bắc, miền Trung... là bao nhiêu, phân bổ ra sao cho hợp lý. Khoảng 80% trí thức sau đại học, trên 60% trí thức tốt nghiệp đại học và cao đẳng đều làm việc tại một số thành phố lớn. Mặc dù Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ và ưu đãi, nhưng có rất ít trí thức chọn vùng sâu, vùng xa làm nơi công tác lâu dài.
Việt Nam có trên 300 trường đại học, song chất lượng đào tạo những trí thức cho nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không cao. Chúng ta chưa có một trường đại học nào đào tạo những trí thức xứng tầm khu vực, châu lục và quốc tế.
Sự quản lý và phân bổ những trí thức này đều do Nhà nước quyết định. Họ chủ yếu được phân bổ theo các ngành kinh tế, chứ không theo sự phát triển thống nhất và đa dạng cũng như mục tiêu phát triển toàn diện của nền văn hóa. Điều này nói lên trình độ quản lý trí thức ở Việt Nam chưa ăn nhập với nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa như hiện nay.
Có một tình trạng không biết nên vui hay nên buồn trong việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập này. Đó là tình trạng chảy máu chất xám. Hàng mấy chục ngàn trí thức được gửi đi đào tạo ở các nước tư bản, Nga và các nước Đông Âu với rất nhiều chuyên ngành khác nhau, khi nắm được chuyên môn, phần lớn trong số họ không trở về xây dựng quê hương, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đâu là nguyên nhân của tình trạng này, do chế độ đãi ngộ thấp, do cơ sở vật chất kém hay những nguyên nhân khác?
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, nhưng trình độ để đáp ứng mục tiêu này còn quá thấp, tiềm lực khoa học của Việt Nam còn non kém, giáo dục - đào tạo nhân tài cho đất nước còn chưa đáp ứng được yêu cầu... Trong cả nước mới có chừng 350 cơ sở nghiên cứu khoa học, mấy chục hội nghề nghiệp, nhưng lại chưa có sự liên hệ mật thiết với nhau và với các tổ chức quốc tế trong thời kỳ tin học phát triển như vũ bão này.
Để phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với phát triển kinh tế tri thức trong xu thế giao lưu, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa khi các làn sóng tin học, làn sóng đầu tư không chỉ diễn ra ở các thành phố, vùng đồng bằng mà còn len tới cả những vùng xa, vùng sâu thì vấn đề phân bổ trí thức một cách hợp lý để đón nhận những giá trị mới và gìn giữ các phẩm giá dân tộc cho nền văn hóa cần phải được đặt vào chiến lược quản lý đất nước.
Hiện nay, dân số Việt Nam đang ở tình trạng bị già hóa rất nhanh. Trong số hơn 8 triệu người đến tuổi nghỉ hưu, không ít các nhà trí thức đầu ngành vẫn còn khả năng để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng chúng ta lại chưa có cơ chế huy động, gây lãng phí rất lớn về trí lực. Cùng với tình hình đó, một lớp trí thức trẻ đầy nhiệt huyết, nhưng lại mới tham gia vào phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nên còn thiếu kinh nghiệm. Vấn đề quản lý và sử dụng những mặt mạnh trong giới tính của trí thức, những vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo của trí thức cũng đều là những vấn đề rất quan trọng trong sự phát triển và xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Người ta hay nói đến việc tìm nhân tài cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Trên thực tế, Việt Nam hiện có rất nhiều nhân tài, nhưng họ chưa được dùng, không được dùng. Việc đào tạo và sử dụng trí thức trẻ để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập này phải gắn với trình độ phát triển rất cao của quản lý xã hội, quản lý đất nước. Những người văn hóa thấp, những người thiếu hiểu biết về văn hóa không thể là những người lãnh đạo và quản lý đội ngũ trí thức để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập này. Trí thức là những người có mối liên hệ thông tin nhanh và cao trong phạm vi toàn quốc và toàn cầu. Sự ấu trĩ trong quản lý, sự vô văn hóa trong quan hệ, sự thiếu khoa học trong điều hành đều là những nguyên nhân phản lực không tập hợp được những người có trình độ trí tuệ cao vào xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Vấn đề trung tâm của nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn đề lối sống. Xây dựng lối sống dân tộc, hiện đại là vấn đề cốt tử của việc xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập. Các dự án đầu tư, sự phát triển nhanh chóng của cơ chế thị trường đã mau chóng phân hóa lối sống của các thế hệ, các vùng, miền, gắn liền với sự gia tăng các hệ thống mạng toàn quốc và toàn cầu. Các vấn đề đó đã tạo nên những thay đổi trong quan niệm sống, trong lao động, cống hiến và hưởng thụ, tạo ra nhiều thay đổi trong những giá trị văn hóa truyền thống và đặt ra nhiều vấn đề trong đời sống xã hội và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự giao lưu quốc tế nhanh chóng như hiện nay có tác động hai mặt rõ rệt đối với lối sống của xã hội. Mặt tích cực là mở rộng tầm nhìn để học tập những lối sống tốt đẹp về lòng nhân ái, tinh thần dám nghĩ, dám làm, tính kỷ luật, sống và làm việc theo luật pháp... Mặt tiêu cực là làm thay đổi nhiều hệ giá trị vốn cân bằng lối sống các thế hệ, các khu vực, các chuẩn mực của một nền văn hóa từng gắn liền với nông nghiệp, với làng xã, với tinh thần cộng đồng, với sự bình yên, tiết kiệm và khoan dung. Nhiều tệ nạn xã hội đã xuất hiện trong cuộc giao lưu với một nền văn minh vật chất đầy lãng phí. Nhiều phẩm giá cá nhân và phẩm giá dân tộc đã không còn nguyên vẹn.
Hiện nay, ở Việt Nam, không ít người lầm tưởng rằng lối sống đẹp là lối sống có nhiều tiền, điều kiện vật chất sang trọng. Mọi thứ đều quy vào đồng tiền. Đó là lối sống theo chủ nghĩa thực dụng mà nền văn hóa truyền thống Việt Nam coi là những phản giá trị; nó không gắn liền với quá trình sinh thành lịch sử của lối sống dân tộc. Cũng phải nói ngay rằng, do ảnh hưởng rất mạnh của văn hóa mạng, của nền thông tin toàn quốc và toàn cầu, của cơ chế thị trường mà không ít người muốn từ bỏ lối sống coi trọng những giá trị tinh thần của nền văn hóa truyền thống.
Định hướng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam khi xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là luôn khẳng định lối sống của người Việt Nam hôm nay, dù trong cơ chế thị trường, trong quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, trong tiến trình toàn cầu hóa đều phải phát huy cao độ những giá trị bền vững, những tinh hoa văn hóa mà cha ông ta truyền từ đời này đến đời khác, như lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đầu óc thực tế(6). Lối sống này phải gắn bó với luật pháp và Hiến pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là lối sống phát huy cao độ tinh thần dân chủ, năng động vươn lên bồi đắp những phẩm giá cá nhân, gìn giữ những phẩm giá dân tộc.
Về thực chất, việc xây dựng lối sống dân tộc, hiện đại trong nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay là xác định sự lựa chọn của cá nhân giữa các phương hướng vận động khác nhau, mang tính lợi ích trong cơ chế thị trường. Trong tình hình như vậy, người trí thức phải lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn để phát triển bản thân mình và góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Hướng lựa chọn phát triển lối sống của trí thức Việt Nam hôm nay là gia tăng tính tự giác, tự chủ của cá nhân, phát triển các hành vi đạo đức, gìn giữ phẩm giá con người. Sự phát triển năng lực cá nhân của trí thức kết hợp với sự phát triển tự do của cá nhân với tự do của cộng đồng dân tộc, hướng tới mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng trên cơ sở của cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Hiện nay, nhiều trí thức có tâm huyết đều mong muốn sự phát triển chính trị - xã hội cởi mở hơn để họ có điều kiện phát huy hết khả năng của mình trong xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà họ cho là phù hợp với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.(6)
Cơ chế thị trường là cơ chế lợi nhuận, người mạnh thì được, kẻ yếu thì thua. Cơ chế đó làm nảy sinh những mưu mẹo, sự lừa lọc, thủ đoạn... Vì những lý do đó, để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong cơ chế thị trường của thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa, Việt Nam cần phải xây dựng một văn hóa pháp luật. Văn hóa đó vừa gắn với luật pháp Việt Nam, vừa gắn với luật pháp quốc tế. Toàn cầu hóa đã thúc đẩy việc hình thành những mô hình, những dạng thức văn hóa mang tính toàn cầu; thúc đẩy sự giao lưu, hợp tác văn hóa giữa các dân tộc. Quá trình này mang tính hai mặt rõ rệt, nó tạo nên những xung đột văn hóa trong mỗi nền văn hóa khi giao lưu, tiếp biến văn hóa ngày càng trở nên phổ biến, với quy mô và tốc độ ngày càng lớn.
Mục tiêu xây dựng luật văn hóa trong quá trình Việt Nam xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là mục tiêu đối ngoại, mà còn bao gồm cả những mục tiêu đối nội, hướng tới bảo vệ quyền tự do của con người, quyền dân chủ của công dân, quyền gìn giữ những phẩm giá dân tộc và chống lại những xu hướng phản tiến bộ, chống lại sự gieo rắc những tư tưởng thù địch vào nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng. Việc thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng nhà nước pháp quyền nhằm phát huy cao độ nội lực của nền văn hóa dân tộc và sự tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia và độc lập dân tộc vừa là nguyện vọng, vừa là trách nhiệm của trí thức Việt Nam khi tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật cho nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hơn ai hết, trí thức Việt Nam cần xuất phát từ thực tiễn đất nước, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành luật pháp trong lĩnh vực văn hóa, kết hợp hài hòa giữa bản sắc văn hóa dân tộc với tính hiện đại của nền văn hóa quốc tế trong hệ thống luật pháp, làm cho nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đậm đà bản sắc dân tộc càng đậm đà hơn, đã hiện đại, tiến bộ càng hiện đại, tiến bộ hơn. Trí thức Việt Nam với trí tuệ của mình cần phát huy tinh thần dân chủ trên cơ sở của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân để không ngừng hoàn thiện hệ thống luật pháp về văn hóa và góp sức vào việc tổ chức thi hành nó một cách có hiệu quả trên mọi quan hệ văn hóa trong cơ chế thị trường của thời kỳ hội nhập này.
Nhằm góp phần vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong tiến trình toàn cầu hóa, đưa văn hóa dân tộc hội nhập toàn diện và đầy đủ với văn hóa thế giới, trí thức Việt Nam cần phải xây dựng một đội ngũ vững mạnh, toàn diện và có những thành tựu kiệt xuất để từ đó, đóng vai trò năng động nội tại cho quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa này.
Trải qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành trung ương khóa VIII, chúng ta thấy trí thức Việt Nam đã đóng góp rất nhiều công sức vào xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thức rằng, việc đào tạo, sử dụng, phân bổ trí thức để họ trở thành một lực lượng thúc đẩy nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phát triển mạnh mẽ hơn thì cần phải có một cơ chế quản lý khoa học, một năng lực quản lý hợp lý, đúng đắn hơn mới có thể quán triệt đầy đủ tinh thần và nội dung mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã xác định về vai trò quan trọng của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. q