Tìm kiếm

VẤN ĐỀ XÂY DỰNG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ (QUA QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT)

01/02/2024

Tạp chí Triết học, số 6, năm 2013

 

NGUYỄN THANH BÌNH (*)

Quốc triều triều hình luật thời Lê sơ là công cụ chủ yếu để xây dựng, hoàn thiện và chỉ đạo hoạt động của bộ máy nhà nước, cai trị và quản lý xã hội. Trong 722 điều của bộ luật này, phần lớn điều luật mà đối tượng chế tài là đội ngũ quan lại các cấp trong bộ máy nhà nước và những người có chức có quyền. Tuy nhiên, những quyền và lợi ích của người dân, nhất là những quyền cơ bản nhất của con người, như quyền được sống, quyền được bảo vệ tính mạng, nhân phẩm và tài sản, quyền được sống trong môi trường văn hóa lành mạnh,... vẫn được pháp luật phong kiến thời này thừa nhận, bảo đảm và bảo vệ. Điều này đã đem lại cho Quốc triều hình luật nhiều giá trị, ý nghĩa đặc biệt và những bài học kinh nghiệm sâu sắc.

 

1. Trước hết, cần phải khẳng định rằng, Nhà nước phong kiến Việt Nam ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào cũng đều không phải là nhà nước pháp quyền với ý nghĩa đầy đủ của nó, vì nhà nước đó không hội đủ những đặc trưng cơ bản của một nhà nước pháp quyền, không phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân và do đó, mọi quyền tự do, dân chủ của con người không hoàn toàn được pháp luật thừa nhận, bảo đảm và bảo vệ; mọi quyền lực của nhà nước không thuộc về nhân dân, nhân dân không phải là chủ thể tối cao của nhà nước.

Tuy nhiên, trong tư tưởng cũng như trong quá trình xây dựng, hoàn thiện  nhà nước phong kiến Việt Nam cho thấy, trong cái nhà nước ấy có nhiều yếu tố, đặc trưng của một nhà nước pháp quyền; nhiều yếu tố dân chủ, nhiều quyền cơ bản và lợi ích chính đáng của con người, của người dân được pháp luật thừa nhận, được bảo đảm và bảo vệ. Vì vậy, mọi hành vi xâm phạm đến những quyền và những lợi ích của người dân mà bất kỳ cơ quan nhà nước, người có chức có quyền hay người dân nào vi phạm đều phải bị phát hiện và bị nghiêm trị. Sự khẳng định này của chúng tôi có thể thấy rõ trong việc xây dựng bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam thời Lê sơ (qua nghiên cứu bộ Quốc triều hình luật).

2. Quốc triều hình luật (còn gọi là Lê triều hình luật hay Luật Hồng Đức) được soạn thảo từ những năm đầu tiên của triều Lê sơ và được các triều đại kế tiếp bổ sung, hoàn thiện. Bộ luật này được ban hành vào năm 1483, dưới thời vua Lê Thánh Tông tài giỏi, uyên thâm Nho học trị vì. Nếu căn cứ vào nội dung, tính chất, phạm vi, đối tượng chế tài của bộ luật này so với các bộ luật khác ở Việt Nam thời phong kiến (bộ Hình thư thời Lý, bộ Quốc triều hình luật thời Trần và bộ Hoàng triều luật lệ triều Nguyễn sau này) thì bộ Quốc triều hình luật thời Lê sơ là bộ luật tiến bộ nhất, hoàn chỉnh nhất, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là cơ sở và nền tảng cho việc xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam thời Lê sơ. Quốc triều hình luật không chỉ là thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam nói riêng và nền văn hiến Việt Nam nói chung, mà còn để lại nhiều giá trị, ý nghĩa to lớn những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật cũng như trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nội dung của bộ Luật Hồng Đức(**) gồm 722 điều, được chia thành 6 quyển (phần) với 13 chương. Nghiên cứu kỹ nội dung của từng quyển, từng chương, từng điều của bộ luật này cho thấy, phần lớn nội dung của bộ luật là những quy phạm pháp luật để điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước phong kiến với dân (thông qua các mối quan hệ vua - dân; giữa đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền với dân), nghiêm cấm và trừng trị những người vi phạm những điều luật, quy phạm ấy. Đối tượng và phạm vi chế tài (có tính bắt buộc) của bộ luật này chủ yếu là đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền. Theo đó, tất cả những hành vi, những việc làm của đội ngũ này mà vi phạm, xâm phạm đến những quyền cơ bản, những lợi ích chính đáng của con người, của người dân đều bị nghiêm cấm, đều được coi là vi phạm pháp luật và bị nghiêm trị.

Vấn đề mà chúng tôi đặt ra ở đây là, vì sao nhà nước phong kiến Việt Nam dưới triều Lê sơ lại đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền (thành phần chủ yếu và là trụ cột của bộ máy nhà nước), đến mối quan hệ giữa nhà nước với dân, đến thái độ và trách nhiệm của nhà nước đối với dân. Có thể lý giải vấn đề đó từ một vài phương diện sau đây:

Thứ nhất, dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, bộ máy nhà nước phong kiến được xây dựng và dần hoàn thiện, đóng vai trò to lớn trong việc bình ổn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia và xây dựng, phát triển đất nước về mọi mặt. Các ông vua trong các triều đại này luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ quan lại các cấp trong cơ cấu chính quyền nhà nước,... bởi vì các ông vua đó đã nhận thức được rõ ràng, đội ngũ quan lại có quan hệ mật thiết đến sự tồn tại, thịnh suy, an nguy của ngôi vua, của triều đại, của chế độ và quốc gia. Việc các nhà vua đưa ra nhiều chiếu, dụ, lệnh như nhà Lý ban hành bộ Hình thư (1042), nhà Trần ban hành bộ Quốc triều hình luật (1341) cũng nhằm những mục đích này. Tuy nhiên, như nhận xét của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, lỗi của hình pháp nhà Lý ở chỗ khoan rộng, lỗi của hình pháp nhà Trần là quá nghiêm khắc, nhẹ nặng không đúng mức(1) nên vẫn không thể ngăn chặn có hiệu quả tình trạng rối loạn, vô trật tự, vô kỷ cương xảy ra trong gia đình đến ngoài xã hội; vẫn không sao ngăn chặn được tình trạng vô đạo đức, vi phạm nghiêm trọng pháp luật của nhiều nhà vua, của nhiều quan lại và của nhiều người có chức có quyền. Thực tế này đã làm giảm uy tín, quyền uy của nhà vua và đội ngũ quan lại với nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an nguy của chế độ, quốc gia. Đặc biệt cuối thời Lý và cuối thời Trần, những hành vi phi đạo đức, trái với đạo làm vua và bề tôi (đội ngũ quan lại) là một trong những nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn tới sự sụp đổ của hai triều đại này. Đến thời Lê sơ, ngay cả thời vua Lê Thánh Tông trị vì, tình trạng trên vẫn chưa được chấm dứt, thậm chí còn gia tăng. Những hành vi vi phạm đạo đức, tham ô tham nhũng, cậy thế cậy quyền để bóc lột, ức chế dân chúng là một thực tế khá phổ biến trong đội ngũ quan lại và những người có chức có quyền. Tất cả đã và đang giảm sút một cách nghiêm trọng hiệu năng của nhà nước phong kiến và của nhà vua, trong việc “tu, tề, trị, bình”, trong việc quản lý xã hội cũng như củng cố địa vị, quyền lực tuyệt đối, tối cao của nhà vua. Vì vậy, việc Lê Thánh Tông ban hành bộ Luật Hồng Đức chủ yếu nhằm vào đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền là điều dễ hiểu.1

Thứ hai, pháp luật của bất cứ chế độ nào cũng là ý chí, quyền lực của giai cấp, đẳng cấp thống trị xã hội, là công cụ quản lý chủ yếu của nhà nước. Thông qua pháp luật và bộ máy Nhà nước mà giai cấp thống trị bắt buộc mọi người, mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội phải tuân thủ, phục tùng ý chí và quyền lực của giai cấp, đẳng cấp thống trị. Cũng thông qua pháp luật mà nhà nước can thiệp vào mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của con người và trấn áp, đàn áp tất cả những hành vi, hành động xâm phạm đến địa vị, quyền lực và lợi ích của giai cấp, thống trị. Do vậy, sự cứng nhắc, khắc nghiệt là đặc điểm chủ yếu và phổ biến của pháp luật ở mọi xã hội có giai cấp.

Tuy vậy, để duy trì sự tồn tại của địa vị và vai trò là người thống trị, ở bất kỳ chế độ xã hội nào, giai cấp thống trị phải dùng mọi biện pháp để củng cố niềm tin của dân chúng đối với mình. Do vậy mà, không được ngộ nhận rằng, mọi nhà nước đều hại dân, giết dân, đều là những nhà nước phi dân chủ. Điều này dễ nhận thấy trong tư tưởng của nhiều nhà tư tưởng phương Đông về nhà nước cũng như trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước của các triều đại phong kiến Chúng tôi cho rằng, trong lĩnh vực chính trị của nhiều nước phương Đông (trong đó có Việt Nam) từ trước đến nay, địa vị, quyền lực và vai trò thống trị xã hội của các giai cấp thống trị không phải lúc nào cũng bị quyết định trực tiếp và chủ yếu bởi địa vị kinh tế. Mà nhiều khi, cái địa vị, uy quyền và vai trò ấy lại phụ thuộc chủ yếu vào việc họ có quan tâm đến đời sống, đến những quyền cơ bản của con người, của người dân hay không. Điều này được thể hiện qua vai trò của người dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước cũng như qua các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là dưới triều đại Lê sơ, rất quan tâm đến người dân, đến đời sống mọi mặt của người dân. Vì vậy, pháp luật thời Lê sơ luôn đòi hỏi nhà vua, đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền phải có trách nhiệm quan tâm đến người dân, phải bảo đảm, bảo vệ những quyền cơ bản và lợi ích chính đáng của người dân.

Thứ ba, Nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV dưới các triều đại Lý, Trần, Lê sơ đã vận dụng một cách khéo léo, linh hoạt những giá trị của Nho giáo, Phật giáo, Pháp gia kết hợp với phong tục tập quán, truyền thống dân tộc và đặc biệt xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước về mọi mặt để xây dựng đường lối trị nước, quản lý xã hội, và thực thi pháp luật. Trong đó, tư tưởng về dân, về vai trò của dân trong Nho giáo được đặc biệt quan tâm. Vì vậy mà, các bộ luật, các văn bản pháp luật như chiếu, dụ, lệnh, huấn điều v.v. được ban hành và thi hành có nhiều quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của người cầm quyền đối với dân. Theo đó, mọi hành vi của họ xâm phạm đến những quyền cơ bản của con người, của người dân đều bị xử lý và nghiêm trị.

3. Như chúng ta đều biết, sau thắng lợi cuộc chiến tranh chống giặc Minh xâm lược và lập nên triều đại phong kiến Lê sơ, các ông vua đầu triều đại này đã cố gắng hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định trật tự xã hội, đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hoá, củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền từ trung ương tới địa phương theo hướng mọi quyền lực tập trung vào triều đình và nhà vua, như chia nước ta thành 5 đạo, dưới đạo là các đơn vị hành chính như trấn, lộ, rồi đến phủ, huyện, châu, đơn vị hành chính thấp nhất là . Năm 1466, dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì, bộ máy nhà nước từ trung ương đến cấp xã lại được hoàn thiện thêm với một số thay đổi đáng kể, như chia nước ta thành 12 đạo, dưới đạo là các phủ, châu, huyện, xã. Việc chia lại các đơn vị hành chính, việc đổi lộ thành phủ, trấn thành huyện của nhà vua là nhằm thu hẹp quyền hạn của chính quyền ở địa phương, việc giảm bớt các đơn vị hành chính là để tăng cường quyền lực chi phối của triều đình, của nhà vua trong việc cai trị, quản lý xã hội và trong việc kiểm soát mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khẳng định, đây là những thành tựu đáng kể của nhà vua và bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê sơ trong quá trình xây dựng và phát triển của chế độ phong kiến và quốc gia Đại Việt thời gian này. Nhưng như trên đã nói, tình trạng xã hội vô trật tự, không có kỷ cương vẫn chưa được khắc phục, những hiện tượng vi phạm đạo đức và pháp luật, nạn tham ô tham nhũng, quấy nhiễu nhân dân trong đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền ở mọi cấp chính quyền vẫn tồn tại phổ biến và có chiều hướng gia tăng. Tất cả đã làm giảm sút nghiêm trọng hiệu quả hoạt động, làm suy yếu vai trò của nhà vua, của bộ máy nhà nước ở trung ương và địa phương trong việc cai trị, quản lý xã hội.

Nhận thức rõ vai trò của bộ máy nhà nước nói chung và đội ngũ quan lại nói riêng trong việc thực thi quyền lực tuyệt đối của nhà vua, đến thời Lê Thánh Tông trị vì và trong suốt thời gian trị vì của ông (1460 - 1497), nhà vua này đã ban hành và thực thi nhiều đạo luật, đặc biệt là ban hành bộ Luật Hồng Đức nhằm xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước và đội ngũ quan lại, quy định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của đội ngũ này đối với dân.

Lê Thánh Tông là vị vua uyên thâm, tôn sùng Nho học, nên chịu ảnh hưởng sâu nặng Nho giáo, đặc biệt là tư tưởng “tôn quân”, “tôn quân quyền”, tư tưởng “chính danh”, tư tưởng đề cao vai trò đạo đức nhà vua và người cầm quyền, v.v. của Nho giáo. Theo đó, đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền (gọi chung là người cầm quyền) phải hội đủ ba yêu cầu cơ bản sau: Một là, phải có đạo đức và luôn tu dưỡng đạo đức; hai là phải có tri thức Nho học và ba là, phải có năng lực vận dụng, thi hành cái đức, cái trí ấy để dưỡng dân, giáo dân và an dân. Vấn đề xây dựng và hoàn thiện đội ngũ quan lại, đặc biệt về mặt đạo đức thể hiện trong bộ Luật Hồng Đức, có thể khái quát ở các phương diện chủ yếu sau:

Thứ nhất, bộ luật đưa ra nhiều quy định ngăn cấm và trừng trị nạn tham ô, tham nhũng trong đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền(2). Như chúng ta đều biết, nạn tham ô, tham nhũng là hiện tượng khá phổ biến trong mọi nhà nước ở đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền; là biểu hiện rõ nhất của sự phi đạo đức, của sự suy đồi và tha hoá về mặt đạo đức. Nó là căn nguyên, là nhân tố chủ yếu làm suy giảm uy tín, năng lực và tính hiệu quả trong quản lý xã hội của bộ máy nhà nước, đạo đức và năng lực của đội ngũ tham gia vào bộ máy nhà nước. Vì vậy mà, trong bộ Luật Hồng Đức nhằm xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả thì điều quan trọng nhất là phải có một đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền thật sự có đạo đức, luôn nêu gương về mặt đạo đức và thi hành cái đức ấy trong việc giúp vua trị nước, an dân.

Cụ thể là trong bộ Luật Hồng Đức, với nhiều điều luật mà theo đó, tất cả quan lại, những người có chức có quyền mà lợi dụng chức quyền, nhiệm vụ với bất kỳ âm mưu, thủ đoạn, phương cách nào để chiếm đoạt tài sản, tiền bạc của công, của nhà nước (các điều 137, 138, 140, 150, 156, v.v..)(3), của dân đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng đạo đức, pháp luật và đều bị nghiêm trị với những hình phạt rất nặng (biếm, chức, đồ, lưu, chém); tất cả số tài sản, tiền bạc chiếm đoạt đó đều phải trả lại và xung vào của công (nếu là của công, của nhà nước), phải trả lại và bồi thường gấp đôi cho người dân (nếu là của dân). Đặc biệt, những hành vi bán ruộng đất, nô tỳ, voi ngựa (điều 74), binh khí, thuốc nổ (điều 75) hoặc vi phạm các tội bán các đồ vật, sản vật quý hiếm như mắm muối, gỗ lim, ngà voi cùng các vật liệu có thể chế tạo vũ khí cho người nước ngoài thì đều bị xử chém đầu hoặc lưu đày ở nơi xa (các điều 75, 76). Các quan sứ thần mà tiết lộ công việc và bí mật của nhà nước cho người nước ngoài để nhận tiền của hối lộ đều bị xử chém (các điều 79, 221, v.v.). Còn những người dung túng hoặc không tố cáo những hành vi phạm các tội trên cũng bị trừng trị nghiêm khắc (lưu hoặc chém). Ngay cả các bậc đại thần, các quan văn, võ mà lợi dụng chức quyền hay ảnh hưởng của mình, dù bất cứ ở hoàn cảnh nào, với bất kỳ phương thức nào mà tham ô, tham nhũng tài sản, tiền bạc của nhà nước, của dân hoặc dùng tiền để kết giao với nhau đều bị quy vào tội mưu nghịch và phải bị chém đầu (điều 204) hay các quan sảnh, quan viện vì ý riêng nhận tiền hối lộ mà trình báo không đúng sự thật đều bị biếm, giáng chức (điều 218); các quan ty (người trông coi pháp luật) vì nhận tiền của hối lộ mà làm trái pháp luật đều bị xử tội (biếm, đồ, lưu, chém) tuỳ theo số tiền của nhận hối lộ (điều 138); các quan liêm phóng (thanh tra, kiểm tra) xem xét việc kiện tụng, v.v. phải đúng sự thật, nếu nhận hối lộ mà đổi trắng thay đen thì xử tội lưu hay chém (điều 197).3

Luật Hồng Đức không chỉ ngăn cấm và trừng trị tội tham ô, tham nhũng mà còn đưa ra khá nhiều điều luật hướng dẫn việc xem xét và trừng trị các tội danh khác liên quan đến tham ô, tham nhũng. Có thể thấy, loại tội phạm này là rất rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, khả năng phạm tội của đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền là rất lớn, do vậy, hậu quả của loại tội phạm này và người phạm tội gây ra rất nặng nề. Như điều 372 quy định: quan lại lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt ruộng đất của công hay tranh giành nhà đất, khai man con cái để tranh giành nhà đất của nhà nước (điều 354) đều bị xử tội biếm hay đồ. Còn những hành vi chiếm ruộng đất của người khác (các điều 353, 370), ức hiếp để mua ruộng đất (điều 355) và lấy tiền hoa màu của dân (điều 347) đều bị xử tội biếm với các bậc khác nhau. Tất cả số ruộng đất, nhà cửa mà quan lại chiếm đoạt đều phải bồi thường gấp đôi cho nhà nước, cho người bị chiếm đoạt.

Trong bộ Luật Hồng Đức còn đưa ra nhiều điều luật nghiêm cấm và trừng trị cái tội đưa hối lộ dù với động cơ, mục đích nào, những hành vi đưa tiền của hối lộ để thoát tội, để thay người phạm tội (điều 140), để khỏi phải đi lính (điều 170), để được tuyển dụng (điều 174), v.v. đều bị xử tội như người phạm tội nhận hối lộ và tất cả số tiền của đưa hối lộ đều xung vào của công. Ngoài những quy định ngăn cấm và trừng trị các tội danh tham ô, tham nhũng và đưa tiền hối lộ trên đây, nhằm khắc phục, loại trừ hiệu quả tình trạng tham ô, tham nhũng, bộ Luật Hồng Đức còn đưa ra những quy định nhằm khuyến khích người tố cáo những quan lại, người có chức có quyền vi phạm tội danh này. Theo đó, tất cả những ai tố cáo, tố giác loại tội phạm này đều được khen thưởng. Trái lại, những ông quan nào, những hành vi nào đe doạ hay ngăn cản người tố cáo, tố giác cũng bị nghiêm trị theo pháp luật.

Có thể thấy, việc ngăn cấm và trừng trị tội tham ô, tham nhũng của đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền cho thấy rõ quyết tâm của vua Lê Thánh Tông trong việc đào tạo đội ngũ quan lại thật sự trong sạch, có đạo đức, trong việc tạo dựng một bộ máy nhà nước có đạo đức, có năng lực đảm nhiệm việc cai trị, quản lý xã hội một cách có hiệu quả.

Thứ hai, bộ Luật Hồng Đức đưa ra nhiều điều luật đòi hỏi đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền phải bảo đảm và bảo vệ các quyền cơ bản, những lợi ích chính đáng của người dân(4).

Có thể thấy, Nho giáo là cơ sở lý luận, căn cứ chủ yếu hình thành bộ Luật Hồng Đức và chỉ đạo việc thực thi bộ luật này. Do vậy mà, các quan niệm về dân, vai trò của dân, thân dân, ái dân, trách nhiệm của nhà vua, người cầm quyền đối với dân,... là những nội dung chủ yếu trong tư tưởng triết học, chính trị và đạo đức của Nho giáo được thể hiện rất rõ và khá đậm nét trong nhiều điều luật của bộ Luật Hồng Đức. Cụ thể hoá và thể chế hoá những nội dung này, bộ luật đã đưa ra nhiều quy định xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, của đội ngũ quan lại, những người có chức có quyền đối với dân. Đó cũng là yêu cầu về mặt đạo đức và trách nhiệm đạo đức của đội ngũ này đối với dân. Xuất phát từ chỗ cho rằng, dân có vai trò to lớn và ảnh hưởng nhất định đến sự tồn tại, thịnh suy, hưng vong của triều đại, của chế độ, của quốc gia mà trong Luật Hồng Đức có nhiều quyền cơ bản của người dân được thừa nhận, được tôn trọng và được bảo vệ bằng pháp luật. Những quyền này không chỉ được thể hiện ở tư tưởng, đường lối, chủ trương mà còn ở việc chỉ đạo, hướng dẫn thực thi bộ luật này. Theo đó, những hành vi, hành động nào vi phạm những quyền này (gọi chung là quyền con người) đều được coi là vi phạm pháp luật và bị nghiêm trị cho dù người vi phạm là ai (trừ nhà vua). Vậy những quyền cơ bản nào của con người được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ trong bộ Luật Hồng Đức? Có thể khái quát những quyền cơ bản sau:

Một là, mọi người đều có quyền được sống. Quyền được sống được coi là điểm nổi bật nhất, tiến bộ nhất và có tính chất bao trùm trong Luật Hồng Đức về quyền con người, đồng thời, thể hiện rõ nhất tư tưởng “dân vi bản”, “dân vi quý” và tinh thần “thân dân”, “ái dân”, “kính trọng dân” và “an dân” của Nho giáo. Thể hiện quyền này, trong bộ luật đưa ra nhiều điều luật yêu cầu nhà vua, nhà nước và đội ngũ quan lại các cấp phải đảm bảo cho mọi người dân có đời sống vật chất đầy đủ và được sống trong môi trường văn hoá lành mạnh. Cho nên, tất cả quan lại mà lợi dụng chức quyền và ảnh hưởng của mình để chiếm đoạt ruộng đất, của cải, tiền bạc của dân, tự tiện thu thuế của dân trái pháp luật đều bị xem là vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật và đều bị nghiêm trị; tất cả tài sản chiếm đoạt phải trả lại gấp đôi cho dân (các điều 181, 185, 206,...) hay điều 325 còn quy định, việc thu thuế của dân phải công bằng, phải phân biệt người giàu - người nghèo, người khoẻ - người yếu mà thu thuế nhiều hay ít. Nhiều điều luật (các điều 573, 578, 579, 580,...) còn ngăn cấm và trừng phạt các tội như tự tiện giết, bán súc vật, phá hoại hoa màu, đê điều, cầu cống, những hành vi ảnh hưởng đến công việc (thời vụ) và đời sống của người dân. Các điều 633, 635 còn yêu cầu quan lại các địa phương phải chăm lo sửa sang đường sá, cầu cống để phục vụ công việc nhà nông và đời sống của người dân. Liên quan đến việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường văn hoá lành mạnh, Luật Hồng Đức đã đưa nhiều điều luật với những quy định nghiêm cấm và trừng trị mọi hành vi vi phạm trật tự, kỷ cương, sự hoà mục trong gia đình và ngoài xã hội; nghiêm cấm và trừng trị nặng các tội nhận hối lộ, gian dâm, ăn mặc lố lăng (điều 640), tội dung nạp bọn vô lại, bói toán, phù thuỷ, đồng cốt (điều 337), các hoạt động mê tín dị đoan (các điều 332, 413, 538) và nhiều điều luật khác khuyến khích tính trung thực, lòng vị tha của con người.

Hai là, quyền được chăm sóc, bảo vệ tính mạng và tài sản. Nhìn chung, trong nhiều điều luật của Luật Hồng Đức đều đòi hỏi nhà vua, nhà nước, đội ngũ quan lại các cấp phải hết sức chăm lo và bảo vệ cuộc sống và tính mạng của người dân, nhất là những người có hoàn cảnh đặc biệt (không nơi nương tựa, không có người nuôi nấng, người tàn tật, goá vợ, goá chồng, v.v..). Theo đó, với những đối tượng này, nhà nước, các cấp chính quyền và đội ngũ quan lại phải chăm sóc họ mà không được bỏ rơi họ, nếu không sẽ bị nghiêm trị (các điều 294, 295). Ngoài ra, bộ luật còn đưa ra những quy định nghiêm cấm và trừng trị các tội ngược đãi, vô cớ đánh đập, hành hạ tù nhân, giết hay bức tử tù nhân, xét xử oan sai hay tù nhân bị thương, ốm đau mà không được chăm sóc, chữa trị (điều 663), tra tấn tù nhân tuổi cao, tù nhân vị thành niên (điều 665). Đặc biệt, những hành vi chủ mưu, cố ý cướp của, giết người, đánh đập, đe doạ làm tổn hại đến sức khoẻ và tính mạng con người với tất cả những thủ đoạn và biểu hiện của nó đều bị nghiêm trị đích đáng, như các tội tự huỷ hoại cơ thể của mình hoặc chủ mưu, cố ý huỷ hoại cơ thể người khác (điều 305), quan lại địa phương để cho hổ, chó sói, lợn rừng cắn hại người dân mà không tìm cách săn bắn (điều 317), dùng thuốc độc hay bán thuốc độc để hại người (điều 421), vì thù ghét mà dùng thuật tà ma, bùa chú dù chưa dẫn đến chết người, cướp của lại giết người, ăn trộm lại hiếp dâm, giết người một cách tàn bạo (các điều 423, 426, 420), v.v.. Tất cả những hành động không biết làm lợi cho dân mà làm hại dân, sách nhiễu, hà hiếp dân thường, thì những người thực hiện, những kẻ đồng loã, che giấu, không tố giác các loại tội phạm này đều bị khép vào tội cố ý làm bị thương hay giết người và phải chịu những hình phạt rất nặng (biếm, đồ, lưu, giảo, chém) tuỳ vào mức độ, tính chất phạm tội.

Ba là, nhân phẩm và nhiều quyền tự do khác của con người cũng được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm (phẩm giá) của con người là một trong những ưu điểm nổi bật nhất của pháp luật thời Lê sơ, là sự khác biệt cơ bản nhất của pháp luật Việt Nam thời phong kiến với các bộ luật của nhiều quốc gia phong kiến khác. Nghiên cứu bộ Luật Hồng Đức cho thấy, con người, dù họ là dân và tầng lớp nào cũng đều được thừa nhận về mặt pháp lý là con người và do vậy, nhân phẩm của họ cùng các quyền tự do khác (dù còn hạn chế nhưng lại rất cơ bản) được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Thể hiện điều này, bộ luật đã đưa ra nhiều điều luật với nhiều quy định mà theo đó, tất cả những hành động xâm phạm đến nhân phẩm con người đều bị nghiêm cấm, người phạm tội bị nghiêm trị. Như con cháu chửi mắng, đánh đập ông bà, cha mẹ; anh em, vợ chồng đánh đập, chửi mắng, lăng mạ và làm nhục nhau (các điều từ 473 đến 476), các hành vi vu khống, tố cáo sai sự thật (từ điều 501 đến 505); quan lại quấy nhiễu, ức hiếp dân chúng (điều 146); tự tiện bắt bớ, giam cầm người vô tội (điều 636); phạm nhân không đáng gông cùm mà gông cùm (điều 658), vô cớ đánh đập tù nhân (điều 707), đánh chết hay bức tử tù nhân (điều 682), xét tội không đúng tội danh hay trái pháp luật (điều 679); tự tiện thích chữ vào mặt vợ con người khác, nô tỳ, người ở đợ (các điều 165, 168, 365); quan lại lợi dụng chức quyền mà ép buộc dân đinh làm đầy tớ (điều 302) và tội gian dâm (từ điều 401 đến điều 410), v.v.. Đặc biệt, những hành vi hiếp dâm, gian dâm với trẻ em từ 12 tuổi trở lên, tội loạn luân (các điều 401, 403, 404, 406) đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng nhân phẩm con người và bị trừng trị với hình phạt rất nặng: lưu, chém.

Liên quan đến quyền tự do con người, Luật Hồng Đức còn đưa ra những quy định: mọi người đều có các quyền như bình đẳng trong việc thực thi pháp luật, quyền tự do hôn nhân, lựa chọn và bảo vệ hạnh phúc, quyền được bảo vệ tính mạng, tài sản của mình, v.v.. Đặc biệt trong Luật Hồng Đức có một vài điều luật mà theo đó, người phụ nữ, người vợ phải có địa vị, vai trò nhất định trong quan hệ với người đàn ông, người chồng, trong gia đình và ngoài xã hội - những quyền mà Nho giáo xem nhẹ hoặc bỏ qua. Như điều 322 quy định, người vợ có quyền trong việc lựa chọn, định đoạt và bảo vệ hạnh phúc của mình; quyền được ly dị, quyền được sở hữu tài sản riêng và một phần tài sản chung với chồng (điều 375) hay người con gái cũng như con trai đều có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ để lại, v.v.. Và những quan lại, những người có chức có quyền nào mà ngăn cản và không bảo vệ những quyền cơ bản này của con người, của người dân đều bị xếp vào tội vi phạm pháp luật và bị pháp luật nghiêm trị.

Có thể nói, mục đích chủ yếu của bộ Luật Hồng Đức cũng như bất kỳ bộ luật nào ở các quốc gia phong kiến đều nhằm duy trì địa vị, quyền lực và lợi ích của nhà vua, của giai cấp phong kiến thống trị, do vậy, nó không thể không tránh khỏi tính cứng nhắc và hà khắc cùng nhiều hạn chế, tiêu cực khác. Nhưng qua bộ Luật Hồng Đức và thông qua vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam thời Lê sơ thể hiện trong bộ luật này cho thấy, bộ luật này để lại nhiều giá trị, nhiều nhân tố tích cực, hợp lý mà chúng ta cần phải nhận thức đầy đủ để tiếp thu, kế thừa trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật và bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay. 

 


(*) Tiến sĩ, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

(**) Từ đây, trong bài viết này, chúng tôi gọi bộ Quốc triều hình luật thời Lê sơ là Luật Hồng Đức.

(1) Xem: Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, t.II (Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.170.

(2) Xem: Nguyễn Quang Hưng, Lương Gia Tĩnh, Nguyễn Thanh Bình (đồng chủ biên). Triết học phương Đông và phương Tây - vấn đề và cách tiếp cận. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.317-326.

(3) Những điều luật mà chúng tôi dẫn trích là ở trong: Quốc triều hình luật (xuất bản lần thứ hai). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.

(4) Xem: Nguyễn Quang Hưng, Lương Gia Tĩnh, Nguyễn Thanh Bình (đồng chủ biên). Triết học phương Đông và phương Tây - vấn đề và cách tiếp cận. Sđd., tr.327-340.

Liên hệ với chúng tôi:

Bản quyền thuộc về Viện Triết Học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam

Điện thoại: +84 435140527, +84 435141134, Fax: +84 435141935

Email: vnphilosophy@yahoo.com

Địa chỉ: 59 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.

Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007